QTSX: NƯỚC MẮM, PHẦN 3




Trang blog này được lập bởi chủ Quán BỌT TRÁI CÂY với mục đích chia sẻ tài liệu về công nghệ thực phẩm cho các bạn cùng khoa cũng như các anh, chị, em và các bạn yêu thích, quan tâm hay tìm kiếm tài liệu về công nghệ thực phẩm.

NẾU THẤY TÀI LIỆU CÓ ÍCH, MỜI CÁC BẠN ĐẾN VÀ ỦNG HỘ QUÁN BỌT TRÁI CÂY ĐỂ CHÚNG TÔI CÓ THÊM KINH PHÍ DUY TRÌ HOẠT ĐỘNG ĐĂNG TẢI TÀI LIỆU CHO MỌI NGƯỜI!
XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN!
Quán Bọt Trái Cây
Địa chỉ: 88/955E Lê Đức Thọ, P.6, Gò Vấp, TP.HCM
Hotline: 0935.355.169
Mail: bottraicay@gmail.com
Facebook: http://facebook/bottraicay
Web: http://bottraicay.blogspot.com/

Xem bản đồ đường đi clik vào đây

2.2. Rút nước mắm loại 1 :
Rút sống hoặc có pha thêm nước đăng thì cũng pha với một tỷ lệ rất thấp. Chượp sau khi chín ở ang được cho vào thùng gỗ để rút thường theo tỷ lệ một nửa chượp tốt ( chượp cá nhâm, cơm, trích, nục...) một nữa chượp tạp (chượp cá sơn , phèn, mối, dớp...).
Bắc một tấm ván đã rửa sạch bằng nước muối, rộng 30 – 40 cm, dài từ bên này miệng thùng xuyên qua đáy bên kia của thùng đối diện với lù. Đổ chượp vào trên tấm ván để tránh va chạm với lù làm vỡ, hỏng. Đổ ước chượp chín lắng trong vào trong lù trước cho lù muối được thấm nước và bao quanh dung dịch muối mặn tránh rạng vỡ sau này. Sau đó đổ bã chượp tạp vào vì nó ít thịt nhiều xương, do đó lù dễ chảy kh6ong bị tắc. Cuố cùng đổ chượp tốt lên trên. Sau khi đổ chượp đầy thùng để yên một đêm cho chượp lắng xuống. Hôm sau mở nút lù ở phía ngoài cho nước mắm chảy nhưng chỉ hé cho nươc mắm chảy từ từ, trung bình 40l/h vì nếu nhất hẳn nút lù ra nước mắm chảy mạnh, muối ởp cửa lù sẽ trôi theo và làm vỡ lù. Nước mắm rút ra lần này có cả bã bột cá chưa được trong nên phải lọc lại nhiều lần nữa. Công việc này gọi là náo. Náo cho đến khi nước mắm chảy ra trong sạch không còn bã bột cá nữa thì được. Thường bao giờ lượng nước mắm này cũng trên lượng quy định của nước mắm loại một là 15g/L.

2.3. Rút nước mắm loại 2:
Sau khi đã lấy đủ số lượng loại 1, ta lại đổ thêm vào thùng nước đăng đã nấu như trên. Ngâm một đêm rồi cũng náo rút như náo rút nước mắm loại 1, ta được nước mắm loại 2. Lượng đạm tiêu chuẩn là 11g/L.

2.4. Rút nước mắm loại 3:
Sau khi đã lấy đủ số lượng nước mắm loại 2, ta cũng lại đổ thêm nước đăng vào. Cũng náo rút như náo rút nước mắm loại 1 và loại 2, ta được nước mắm loại 3A, 3B, 3C. Lượng đạm tiêu chuẩn là 9g/L. Nếu thừa hay thiếu phải pha lại.
Trung bình 1 tấn cá và 1200 lít nước đăng rút được 700 lít loại 1, 600 lít loại 2 và 900 lít loại 3.
Chú ý: sau mỗi lần náo rút, ta dùng cuốc sạch để xới đảo bã chượp ở trong thùng làm cho lớp bã khỏi chặt, lù không tắt và lượng đạm rút ra được kiệt hơn.

II. Phương pháp Nghệ An – Hà Tĩnh:
1. Giai đoạn chế biến chượp:
1.1. Nguyên  tắc:
Phân giải protein của thịt cá bằng enzyme trong cơ thể cá và tuyệt đối không cho thêm nước lã. Phương pháp này khác phương pháp Cát Hải ở cách muối cá: cá được muối trong những ô bể lớn, mỗi ô bể chứa từ 5 – 5,5 tấn cá, gài vỉ nén chặt. Thông thường 100Kg cá, 25Kg muối và 2Kg thính (ngô gạo).

1.2. Cách tiến hành:
a) Cho muối lần 1:
Cá đánh về rửa sạch bùn đất, chất bẩn, sau đó phân loại theo kích cỡ. Nếu cá dài quá 15cm phải băm hoặc thái thành từng khúc 4 – 5cm, làm cho muối dễ ngấm vào thịt cá. Đối với cá ướp lạnh bằng nước đá, phải ngâm vào nước muối 5% để cá trở lại bình thường rồi mới ướp. Trong những ô bể trát xi măng được lau  chùi sạch sẽ, sát đáy bể đục 2 lỗ làm thành 2 luồng. Cá rửa xong đổ vào bể, cứ một lớp cá rắc một lớp muối và một lớp thính rang, chân mang giày ống cao su sạch, dặm chặt lớp muối và thính ở tầng dưới ít hơn so với tầng trên. Lớp cá trên cùng được phủ kín bằng lớp muối dày 3cm, để ủ kín, giữ nhiệt và tránh ruồi nhặng. Tỷ lệ cá : muối : thính là 100 : 12 : 2.
b)  Cho muối lần 2:
Sau  khi muối lần 1 được 3 ngày vào mùa hè (5 ngày vào mùa đông), cá được gài nén chặt, ép thành 1 khối thịt. Vì được phủ kín bằng lớp muối trên mặt làm nhiệt trong cơ thể cá tăng lên giúp cho enzyme tiêu hóa tác động dễ dàng, do đó cá bị vỡ bụng và muối sinh tác dụng thẩm thấu. 1 phần muối ngấm vào cá làm cho nước trong cơ thể cá tiết ra làm ngập cá, 1 phần muối hòa tan trong nước cá tiết ra này, khi ấy có hiện tượng sủi bọt, mùi chua, mở nút lù thấy dung dịch muối màu đỏ nâu, đục bẩn là do máu cá tiết ra, có mùi tanh, chảy xuống máng chứa xung quanh bể rồi được múc vào ang, vại. Sau khi rút hết dung dịch nước muối ra, cá trong bể xẹp xuống, phần lớn những rêu nhớt bùn còn lại do rửa cá không sạch sẽ đọng lại ở trên mặt phên. Nhấc đòn che và phên ra rửa sạch, phơi khô. Dùng muối đánh khuấy dung dịch nước muối rút ở trên với tỷ lệ: cứ 100Kg cá ướp trong bể thêm 8Kg muối. Dung dịch muối này lại đổ cho ngập cá để tránh cá tiếp xúc không khí và ruồi nhặng đậu, dùng phên tre đậy lên trên và nén chặt bằng đòn tre để cá không nổi lên. Hằng này buổi sáng rút nước ra phơi nắng (không rút hết), phơi đến 3 – 4 giờ chiều, nước còn nóng lại đổ vào bể cá. Dùng phên tre lợp lá đậy kín trên bể để giữ nhiệt.
Trong bước này khi có hiện tượng sủi bọt thì phải muối cho đúng lúc, để muộn thì chượp dễ bị hỏng.
c)  Cho muối lần 3:
Sau khi cho muối lần 2 được 3 tháng vào mùa hè (6 tháng vào mùa đông), hàng ngày, kéo rút nước ra phơi nắng, muối tiếp tục ngấm vào cá làm cho nước trong cơ thể cá tiết dần ra, cá xẹp xuống nữa, dung dịch nước muối lại có hiện tượng sủi bọt, bốc mùi chua. Khi ấy mở nút lù ra, cho thêm muối vào dung dịch rút được với tỷ lệ cứ 100Kg cá ướp trong bể hòa thêm 5Kg muối nữa. Nhấc đòn tre và phên ra rửa sạch., phơi khô. Dung dịch sau khi đã hòa thêm muối đánh khuấy đều, đổ vào bể lại dùng phên và đòn tre nén chặt xuống.
Hàng ngày mở nắp bể (làm bằng phên lợp lá) để phơi nắng, tối đậy lại. Mỗi tuần rút nước từ ang, chum phơi một lần (buổi sáng rút ra phơi, buổi chiều đổ vào ngay). Công việc đó được gọi là “náo rút”. Làm như vậy chừng 2 tháng liền cá chìm hẳn xuống, lúc này thì nhấc bỏ phên và đòn tre ra, không nén nữa, nhưng hàng ngày, vẫn mở nắp bể để phơi và cứ 10 ngày thì náo rút một lần. Đến tháng thứ tư việc náo rút thưa dần, chừng 2 tuần hay 1 tháng mới náo rút một lần. Cá được ngâm như  vậy trong một thời gian lâu hay chóng là tùy theo từng loại cá, sự chăm sóc náo rút và tiết trời nóng lạnh,... thường vào khoảng 8 – 10 tháng là chượp chín.
Đặc điểm của phương pháp này là nhờ tác dụng của ép nén và nhờ tác dụng thẩm thấu của muối, nước trong mình cá tiết ra làm thành một dung dịch muối gần bão hòa và ngập cá làm ngăn cản tác dụng phân hủy của vi khuẩn.
2. Giai đoạn rút nước mắm:
2.1. Chuẩn bị:
Trước khi kéo rút chượp thành nước mắm, cần kiểm tra xem chượp đã chín chưa. Với phương pháp gài nén khi chượp chín, cá tuy vẫn giữ nguyên hình dạng nhưng khi lấy tay nhấc lên, thịt cá róc khỏi xương một cách dễ dàng, bóp nhẹ thịt cá tướp nhừ, đồng thời nước trong, sắc vàng đỏ, hương thơm, còn về mặt kỹ thuật hóa học cũng như phương pháp Cát Hải. Đồng thời phải nấu nước đăng để rút nước mắm và nước hàng để pha dấu.
2.2. Rút nước mắm cốt:
Chượp khi chín không phải cho vào thùng lọc như phương pháp Cát Hải mà chỉ việc mở nút lù cho chảy từ từ ở ngay bể chượp để rút lấy nước cốt. Nếu nước mắm cốt rút ra còn vẩn đục thì lại đổ vào bể náo rút lại, chừng 3 lần, nước trong là được. Phương pháp này vì không cho thêm nước lã nên loại nước mắm rút ra có lượng đạm rất cao, hương rất thơm và chỉ dùng để pha với các loại nước mắm rút ra sau này, nên loại này không bán ở thị trường. Trung bình một tấn cá rút được 350 lít nước mắm cốt.
2.3. Rút nước mắm loại một:
Sau khi rút hết nước mắm cốt, dùng nước muối 25% hoặc nước đăng đun sôi đổ vào bể ngâm một ngày cho lượng đạm tiết ra. Hôm sau, mở nút lù cho chảy từ từ (40 lít 1 giờ) nếu nước mắm chưa được trong thì lại đổ vào bể và tiếp tục rút tới trong là được. Sau đó cho thêm nước hàng với tỷ lệ cứ 100 lít nước mắm cho thêm 3 lít nước hàng, đem đun sôi 30 phút với bọt bẩn nổi lên. Để nguội rồi kiểm nghiệm lượng đạm, pha với một phần nước mắm cốt, ta được nước mắm loại một.

2.4. Rút nước mắm loại hai: sau khi đã rút đủ số lượng nước mắm loại một, ta lại dùng nước đăng đun sôi đổ vào bể cũng làm như khi rút nước mắm loại một. Pha với nước hàng và một phần nước mắm cốt ta được nước mắm loại hai.
2.5. Rút nước mắm loại ba: sau khi đã rút đủ số lượng nước mắm loại hai, ta dùng nước đăng đun sôi đổ vào bể, làm tương tự như khi rút nước mắm loại một. Pha với nước hàng, một phần nước mắm cốt và nước mắm loại hai, ta được nước mắm loại ba.
Chú ý: trong quá trình kéo rút,  sao mỗi lần náo rút ta dùng moat cái cuốc bằng gỗ sạch, để cuốc, xới bã chượp    ở lớp tr6en xuống lớp dưới và ngược lại. Sau khi  đã rút xong nước mắm loại ba, bã còn lại trong thùng lại đem nấu với loại chượp xấu dùng làm nước đăng. Làm như vậy để tận dụng cho hết lượng đạm trong bã. Thường mội lít nước đăng có 5g nitơ toàn phần.
Với phương pháp chế biến này, trung bình mỗi tấn cá và 2000 lít nước đăng, ta rút được 600 lít nước mắmloại 1, 800 lít nước mắm loại 2, 1000 lít nước mắm loại 3. nước mắm sai khi pha chế, kiểm nghiệm thấy đúng lượng đạm qui định của từng loại thì chuyển vào chum, vại và để vào trong kho chứa đựng.
            III. Phương pháp Phú Quốc
Ơ Phú Quốc việc chế biến nước mắm trước kia thường chỉ dùng những thùng gỗ để chứa đựng. Phương pháp này khác phương pháp Cát Hải là không thêm nước lã và khác phương pháp gài nén Nghệ An-Hà Tĩnh là không cho muối nhiều lần mà chỉ cho một lần muối.
1. Giai đoạn chế biến chượp
1.1 Trộn cá và muối:
Cá và muối được đựng trong những thùng gỗ được lau rửa sạch, cứ một lớp cá là một lớp muối, một lớp thính và một lớp dứa hoặc một lớp mít chín thái thành khoanh. Sau mỗi lớp cá muối thính, dứa hay mít người ta cấm bàn cào gỗ dàn đều lớp cá và muối, trung bình một lượt cá dày 8-12cm, càng lên trên, lớp muối càng nhiều và lớp cá trên cùng được phủ kín bằng lớp muối dày khoảng 3cm để ủ nhiệt và tránh ruồi nhặng đậu vào. Với tỷ lệ 100Kg cá, 25Kg muối, 2Kg thính, 10 quả dứa,1-2 quả mít.
1.2 Rút nước bổi ra phơi:
Sau khi cho muối xong, cá bắt đầu phân giải. Một phần muối ngấm vào cá làm cho nước trong cá thoát ra, phần muối khác hoà tan trong nước (nước cá thoát ra) làm thành một dung dịch muối gần bão hoà. Sau 3 ngày ta mở nút lù, dung dịch nước màu đỏ nâu mùi tanh do máu cá tiết ra, dung dịch này gọi là nước bổi. Nước bổi rút ra buổi sáng được phơi nắng, buổi chiều đổ vào ngay.
1.3 Thời kỳ ngâm:
Do nước bổi được tháo ra, cá xẹp dần xuống nhưng còn phải tiếp tục nén xuống nữa. Dùng vỉ tre đan đã rửa sạch đặt lên thùng cá rồi dùng đá xanh đè chặt xuống. Sau khi nén xong đem đổ vào thùng một nửa nứơc bổi vừa được rút ra cho ngập cá. Một nửa nước bổi còn lại chứa vào ang, chum phơi nắng. Hàng ngày, mở nắp phên đập thùng để phơn nắng, dần dần nước ở thùng cạn, tiếp tục đổ nốt số nước bổi còn lại vào. Mỗi tuần kéo nước ra phơi một lần, buổi sáng kéo ra phơi, buổi chiểu đổ vào ngay. Làm nhu thế chừng 2 tháng liền sau đó hàng tháng kéo ra phơi chừng 1-2 lần. Cá được ngâm như vậy trong thời gian lâu hay chóng còn tuỳ theo mỗi loại cá, dụng cụ chứa đựng, thời tiết khí hậu.
Ơ Phú Quốc khí hậu nóng bức hầu như quanh năm là mùa hè. Buổi trưa, nhiệt độ trên mặt thoáng trong thùng chượp là lên đến 40-50oC nên thời gian chín của cá có mau hơn. Nói chung thời gian ướp cá từ 4-7 tháng. Cá Cơm 3 tháng, cá Nục 3-4tháng, cá lẹp 4 tháng, cá Trích, cá Lầm từ 5-6 tháng, cá Mòi 6-7 tháng.
2 Giai đoạn rút nước mắm
Cá sau khi đã chín, chuẩn bị rút các loại nước mắm. Một số nhà sản xuất trước kia họ thích để thời gian ngâm dầm từ 1-2 năm. Vì thời gian ngâm dầm lâu, nước mắm rút ra hương vị càng đậm đà thơm ngon, lương đạm càng cao. Phương pháp rút nước mắm cốt và nước mắm bán tương tự như phương pháp rút nước mắm của công ty TNHH nước mắm Việt Hương đã trình bày ở trên, tuy nhiên trong phương pháp Phú Quốc nhờ có điều kiện khí hận nóng bức quanh năm, hàng ngày trời nắng nhiệt độ nước trên mặt thùng là 35-45OC thích hợp cho điều kiện tác động của enzym làm phân giải chất protein trong thịt cá chóng chín để tạo thành nước mắm. Trong gian đoạn kéo rút nước mắm, được áp dụng phương pháp tuần hoàn liên tục nên lượng đạmrút ra được kiệt và tận dụng hết được hương vị trong chượp.
Nhận xét:
Qua việc trình bày phương pháp chế biến nước mắm ở trên thì  giai đoạn chế biến chượp là quan trọng nhất. Cá là một loại động vật thịt mềm, lượng nứơc nhiều lại có ruột cho nên cá là môi trường tốt cho vi khuẩn hoạt động. Do đó trong khi chế biến nước mắm nếu liều lượng muối cho không đúng và sự chăm sóc không được chu đáo thì chượp rất dễ bị hư thối.
Khi chượp chế biến không được tốt hay bị thối, dù có chữa lại được chăng nữa, thành phẩm nước mắm sau này vẫn không được tốt, sắc nước không đẹp, hương vị ít thơm, lượng đạm hao hụt,đôi khi ăn vào còn có hại cho cơ thể. Chượp được chế biến có tốt, nước mắm rút ra thơm ngon ăn vào bổ dưỡng, giá thành hạ.
Cả ba phương pháp chế biến nước mắm trên đều là phương pháp truyền thống, chiết rút đạm cá triệt để nhờ vào hệ thống kéo rút liên hoàn và có giai đoạn rút nước mắm tương tự nhau. Tuy nhiên mõi phương pháp có nét đặc trưng riêng vì thế mà sản phẩm nước mắm cũng mang hương vị khác nhau. Các phương pháp khác nhau về:
-         Thành phần và tỷ lệ các thành phần trong chượp .
-         Dụng cụ chứa ( thùng gỗ, ang chum hay bể xi măng).
-         Phương pháp cho muối.
-         Hàm lượng muối trong các lần cho muối.
-         Thời gian cho muối.
-         Thời gian rút nước mắm.
Ngoài ra trong các phương pháp trên còn khác nhau trong cách thức tiến hành vì thế mà mỗi loại nước mắm đều có nét riêng nhưng vẫn đạt được chất lượng cao và đậm đà bản sắc dân tộc. Bên cạnh đó, cách chữa nhựng sự cố thường gặp của các phương pháp cũng có một vài nét khác biệt.
 Sau đây là một vài hiện tượng hư hỏng thường gặp trong chế biến nước mắm và cách chữa của mỗi phương pháp:

a)  Phương pháp Cat Hải : trong quá trình muối cá, nếu thấy nước chượp có màu xám hay đen xông mùi chua thối là chượp đã bị hỏng (thường thì chượp thối, nước bắt đầu thối trước, cá thối sau) lúc này cần phải chữa ngay.
   Nguyên nhânvà cách khắc phục
- Cá rửa không sạch: nếu trong khi muối cá, cá rửa không sạch còn lẫn bùn cát, rong rêu thì chượp dễ bị thối. Trong trường hợp đó cần vớt hết cá ra, rửa nước muối mặn có nồng độ 10% cho sạch hết bùn bẩn. Nước rửa bỏ đi, cá thì cứ 100Kg xóc đều với 8Kg muối đổ vào ang. Phần nước thối ở ang để yên một đêm cho lắng bùn cát, hôm sau gạn lấy phần nước trong đổ vào ang cá đánh đều cho tan hết muối. Hàng ngày mở nắp phơi vá đánh khuấy cho hơi thối, khí độc bốc lên và bay đi. Màu đen của nước cá bớt dần, chuỷên sang màu xám và đỏ nhạt. Tiếp tục chăm sóc tốt trong khoảng hai tuần hơi thối bớt đi, chượp sẽ trở lại bình thường.
- Cá bị nhạt muối: khi muối cá, nếu không cho đủ lượng muối hoặc cho muối uqá chậm chượp cũng sẽ dễ bị thối. Trường hợp này chỉ cần thêm 8-10Kg muối với mỗi tạ cá. Đánh đảo đều cho hơi thối bốc đi và chỉ trong khoảng 10 ngày sắc nước dần dần  đỏ ra, chượp sẽ trở lại bình thường.


- Trường hợp nước bị mưa: trong khi mưa những ang chượp đậy không kịp hoặc nắp ang bị nứt vỡ, nước mưa vào. Nếu không kịp thờo chữa ngay chỉ sau 2-3 ngày là chượp ngả màu xám rồi thối. Nếu mới bị nước mưa, ang chượp để yên một đêm, nước mưa nhẹ hơn nước muối sẽ nổi lên trên mặt chượp. Khẽ múc hết lớp nước mưa, đánh đều phơi nắng, chượp sẽ không bị ảnh hưởng gì. Nếu nước mưa đã lâu, chượp bi thối, nước chượp có màu đen, mùi chua cay, ta cho thêm từ 5-10Kg muối với mỗi tạ cá. Đánh đảo đều, phơi nắng luôn cho hơi thối bốc đi, sau 10 ngày sắc nước dần dần đỏ ra, chượp trở lại bình thường.
Tuy nhiên trong khi muối cá phải thường xuyên chăm sóc chượp, chế biến tốt không nên để chượp bị thối vì khi chượp bị thối một số đạm bị phân huỷ bay hơi mất làm cho lượng đạm trong nước mắm sau này rút ra bị giảm, sắc nước không đẹp, hương vị ít thơm. Trong cả ba trường hợp chữa thối ở trên nếu có thính gạo và ngô thì nên cho thêm vào mỗi ang 2Kg, làm cho hương vị và màu sắc chóng trở lại bình thường.

b)  Phương pháp Nghệ An-Hà Tĩnh: trong quá trình ướp cá nếu thấy nước có màu xám, đen hay chua thối là chượp đã bị hỏng.
Nguyên nhân và cách khắc phục
- Cá rửa không sạch:
Trường hợp này không phải vớt hết cá ra như phương pháp Cát Hải mà chỉ rút hết dung dịch nước muối ở trong bể ra và phơi nắng, để lắng trong gạn bỏ bùn, đất, cát, hoà thêm muối và thính theo tỷ lệ cứ 100Kg cá thì cho 4Kg muối vá 0,5Kg thính rồi đổ vào bể. Tiếp tục rút 3 lần như thế nhưng không phải cho muối và thính vào nữa. Đất bùn trong cá theo nước chảy ra loại bỏ được hết. Hàng ngày, mở nắp bể để phơn nắng, chượp dần dần sẽ có màu đỏ, khí thối bay bớt đi và sau hai tuần thì chượp trở lại bình thường.
- Cá cho nhạt muối: 
Trường hợp này ta cũng rút nước trong bể ra và cho thêm muối với tỷ lệ từ 5-10Kg muối đối với mỗi tạ cá. Hàng ngày năng phơi và xáo trộn luôn. Sau 1 ngày sắc nước dần dần đỏ và trở lại bình thường.
- Chượp bị nước mưa: trường hợp mới bị nước mưa thì để yên, múc hết lớp nước mưa ở trên, phơi nắng, tháo nút nhiều lần, chượp không bị ảnh hưởng. Nếu nước mắm bị nước lã vào lâu, chượp đã bị thối thì ta chữa giống như trường hợp bị nhạt muối.

c) Phương pháp Phú Quốc:
Nếu chượp bị đen và hôi thối thì cách chữa của phương pháp này cũng tương tự như cách chữa của phương pháp của công ty và hai phương pháp trên. Tuy nhiên, do nhiệt độ tại vùng này khá cao, thời gian ngâm dầm lâu, cho thêm thính, dứa và không cho nước lã vào nên nước mắm chế biến theo phương pháp này có chất lượng cao, chượp ít bị hỏng.

IV . Phương pháp chế biến cá nước ngọt
Trước kia có một số quan niệm cá nước ngọt không thể chế biến thành nước mắm được vì thịt nhão hơn thịt cá nước mặn, lại thường sinh sống ở sát đáy hồ ao nên nước mắm làm ra sẽ có mùi tanh, không thơm, màu xám đen, không trong. Nhưng ngược lại qua một số nghiên cứu ở địa phương như Kiến An… và qua 3 năm nghiên cứu chế biến ở trường Trung cấp Nông Lâm Trung Ương, kết quả cho thấy cá nước ngọt nếu chế biến tốt thì nước mắm rút ra có chất lương không thua gì cá nước mặn.
1. Giai đoạn chế biến chượp:
Những loại cá mỏng mình, nhiều thịt, ít vảy như cá Đuối, cá Lành Canh… chế biến dễ hơn những loại cá nhiều vảy, nhiều xương như cá Rô, cá Chép.
1. 1 Trộn cá và muối:
Cá nước ngọt thuộc loại cá ở sát buồn nên vảy, đầu có nhiều bùn đất, cần phải rửa thật sạch, nếu không nước mắm sau này dễ bị thối và có mùi tanh đất. Nếu là loại cá to cần phải thái nhỏ thành khúc 3-4 cm để cá dễ thấm muối. Cá sau khi đã rửa sạch đổ vào thúng hay nia, xóc muối và thính (ngô hoặc gạo) lấy tay trộn đều rồi bốc vào ang hay chum, vại (có dung tích 150 lít đã được chùi rửa sạch sẽ). Lớp cá trên cùng được phủ một lớp muối dày chừng 3 cm, cứ 100 Kg cá dùng 15 Kg muối và 2 Kg thính. Đậy kín, tránh ruồi nhặng đậu vào.
1.2 Cho nước và muối:
Cá được đậy kín trong chum 2 ngày vào mùa hè, 4 ngày vào mùa đông, thịt cá nóng lên và phân giải. Khi ấy mở nắp chum hoặc ang cứ 100 Kg thêm vào 20 lít nước lã sạch hoà với 15 Kg muối đánh tan đều rồi đồ vào chum hoặc ang cá. Dùng bàn cào gỗ đánh đều cho muối trong chum hoặc ang phơi nắng và đánh đảo cho thật đều, tối đậy lại. Chừng một tháng sau, việc đánh khuấy thưa dần (1 tuần 2 lần). Tháng thứ tư trở đi 1 tuần 1 lần.
Trong quá trình muối cá, chượp tốt hay xấu, chín nhanh hay chậm một phần lớn phụ thuộc vào sự chăm sóc và đánh khuấy. Chum muối cá phải được kê cao ráo, phơi nắng, hết sức tránh bụi bẩn, nước mưa hay nước lã rơi vào. Chượp được chăm sóc thường xuyên chừng 8 tháng vào mùa hè (10 tháng vào mùa đông) thì bắt đầu chín. Khi chượp chín, thịt cá nát nhừ như bột, lắng chìm, sắc nước vàng óng, trong suốt, tỏa mùi thơm, không còn mùi tanh cá. Trong quá trình muối cá, nếu thấy chượp có màu xám hay đen, xông mùi chhua thối là chượp đã bị hỏng. Tùy từng trường hợp mà ta dùng những cách chữa khác như đã trình bày cách chữa chượp thối ở phương pháp Cát Hải.

2. Giai đoạn rút nước mắm cốt:
2.1 Rút nước mắm cốt:
Chượp đã chín, trước khi rút nước mắm cốt, đánh khuấy đều và mở nắp chum hoặc ang, phơi 2 nắng liền. Tùy theo điều kiện dụng cụ sản xuất, cá nước ngọt nhiều hay ít mà áp dụng phương pháp kéo, rút nước mắm khác. Nếu là cơ sở sản xuất lớn, ta áp dụng phương pháp kéo rút giống như phương pháp Cát Hải. Nhưng hiện nay, việc sản xuất cá nước ngọt ở miền Bắc phần nhiều là sản xuất gia đình từ 50 – 70 kg đến vài tạ cá. Do đó, phương pháp kéo rút nước mắm ta chỉ dùng dụng cụ đơn giản.
Dùng những rổ lớn đặt trên những ang hoặc chum sạch sẽ, khô ráo, trên miệng rổ phủ kín bằng lớp vải phin hoặc khâu thành những túi vải úp sát miệng rổ, đánh đều chượp, múc đổ vào túi vải trogn rổ, nước mắm cốt được lọc qua lần vải chảy xuống ang, chum; lọc 1 lần thấy còn đục thì tiếp tục lọc lần 2. Đó là loại nước mắm cốt để riêng, sau pha chế với các loại nước mắm khác. Trung bình một tạ cá rút được 40 lít nước mắm cốt.
2.2  Rút nước mắm loại 1:
Bã chượp lọc còn lại ở túi vải trong rổ lại đổ vào ang hay chum, lấy 45 lít nước muối 10%, đun sôi, đổ ngay vào bã chượp, đánh đều, đậy kín, ngâm một đêm cho lượng đạm trong bã tiết ra, hôm sau lại đổ vào túi vải trong rổ để lọc. Nếu thấy còn đục, tiếp tục lọc lần 2 và thêm 1,5 lít nước hàng, sau đó đun sôi 30 phút, lọc lại 1 lần nữa, để thật nguội, pha thêm 25 lít nước mắm cốt ở trên, ta rút được 70 lít nước mắm loại 1.
2.3 Rút nước mắm loại 2:
Bã chượp lọc còn lại ở túi vải trong rổ đem đổ vào chảo, thêm 60 lít nước lã, 10 kg muối, và 1,5 lít nước hàng, đun lửa thật to cho sôi bùng, làm bay hết khí độc và hơi thối, đồng thời đạm trong bã tiết ra hết. Đun như vậy trong 1g 30 phút, đem lọc ta được 45 lít, để nguội rồi thêm 15 lít nước mắm cốt ở trên, ta được 60 lít nước mắm loại 2. Bã chượp còn lại dùng làm thức ăn gia súc hoặc làm phân bón. Lượng nước mắm thu được với mỗi tạ cá còn thay đổi tùy theo mỗi loại cá, cách chăm sóc, đánh khuấy. Trung bình 1 tạ cá rút được 70 lít nước mắm loại 1 và 60 lít nước mắm loại 2.
V. Sản xuất nước mắm cao đạm và cô đặc
Sản xuất nước mắm cao đạm và cô đặc là vấn đề rất bức thiết trong tiêu dùng hiện nay vì do yêu cầu của vận chuyển và do yêu cầu của bảo quản, sử dụng. Đã có nhiều công trình nghiên cứu cô đặc nước mắm, nhưng một khó khăn chưa được giải quyết triệt để là vấn đề hương vị của nước mắm và sự tổn thất đạm trong quá trình cô đặc.
Hiện nay đã có một số cơ sở sản xuất nước mắm cao đạm như ở Phú Quốc có nước mắm đạt 30 – 40 độ đạm. Nước mắm đặc biệt có độ đạm trên được sản xuất ở nhiều nơi nhưng nếu dựa vào phương pháp chế biến tự nhiên cổ truyền còn rất ít, chỉ khoảng 20-25% tổng lượng nước mắm. Vậy ta cần nghiên cứu áp dụng các kỹ thuật tiến bộ để giải quyết các tồn tại này.
1.  Sản xuất nước mắm cao đạm
1.1. Phương pháp kéo rút liên hoàn:
Đây là phương pháp sản xuất của khu vực Phú Quốc, Thuận Hải. Sau khi đã rút được nước mắm thấp đạm ta lần lượt cho vào các thùng chượp có lượng đạm từ thấp đến cao. Kéo rút liên hoàn thật mạnh, vừa kéo rút vừa phơi nắng. Kéo rút mạnh thì lấy được đạm nhiều, càng phơi nắng thì nước càng bốc hơi đi, nước mắm sẽ chóng chín và đậm đặc dần lại. Với phương pháp này, ở Phú Quốc, Rạch Giá đã sản xuất nước mắm từ 30-40 độ đạm, tuy nhiên có tốn nhiều công, thời gian, thời gian kéo rất dài từ một đến vài năm và số lượng vẫn hạn chế.
1.2. Phương pháp tiếp nhiệt:
Từ nước mắm thấp đạm, ta tiến hành tiếp nhiệt để làm bay hơi nước trong nước mắm theo nguyên lý cô đặc hoặc phơi sấy.
            a) phơi nắng:
Với phương pháp tiếp nhiệt tự nhiên ta lợi dụng ánh nắng mặt trời để phơi (phương pháp này tương tự như sản xuất muối), lớp phơi càng mỏng thời gian càng rút ngắn, phơi đến khi nào đạt nồng độ yêu cầu thì thu sản phẩm, trong khi phơi cần khuấy đảo để phá vỡ màng muối trên mặt, tăng khả năng bay hơi nước, điều cần chú ý là phải chọn địa điểm và phải xây dựng sân phơi chuyên dùng để đảm bảo chất lượng và vệ sinh, tốt nhất là nên xây dựng sân phơi ở nơi cao ráo, thoáng gió, không bụi bặm, sân phơi được xây bằng gạch men trắng tốt. Phương pháp này có thời gian thực hiện khá dài và chất lượng nước mắm bị biến đổi nhiều.
b)  Phơi chảy:
Ta lợi dụng ánh nắng mặt trời như trên nhưhg thiết bị phơi được làm bằng kính đóng lại thành khung, sân phơi này có độ dốc khoảng 50, tùy theo nồng độ yêu cầu cô đặc ta có thể thay đổi độ dốc và diện tích của thiết bị phơi.
Nước mắm thấp đạm được phun lên phía trên (hoặc chảy theo máng tràn tự nhiên) rồi tự động chảy xuống phía thấp. Trong quá trình chảy chậm đó, nước mắm sẽ hấp thu nhiệt bay hơi và phía dưới có một máng để tập trung nước mắm đậm đặc. Trong quá trình chảy, muối sẽ đứng lại trên kính nên thỉnh thoảng phải ngừng lại quá trình phơi để lấy lớp muối ra. Phương pháp này cho ta sản phẩm chất lượng tương đối tốt.
c). Phương pháp phơi lồng kính:
Ta đóng các khung lồng kính và sử dụng chất hấp phụ năng lượng mặt trời để nâng cao nhiệt độ phơi. Các lồng kính được đặt ở độ nghiêng nhất định từ 5-15%, cho nước mắm thấp đạm chảy vào phía cao và lăn từ từ xuống theo độ nghiêng của thiết bị. Trong quá trình đó nước mắm sẽ hấp thụ nhiệt và bay hơi nước. Phương pháp này gần giống phương pháp trên; nhưng hiệu quả lồng kính rất cao do khả năng hấp thụ nhiệt bức xạ rất lớn, do đó nước bay hơi nhanh chóng, chỉ trong vài phút là đạt kết quả. Khi phơi, nước sẽ bay hơi tập trung trên kính, nhưng tụ lại và theo độ dốc của tấm kính mà chảy ra ngoài, còn nước mắm đậm đặc cũng chảy dồn xuống dưới. Trong quá trình phơi cũng phải dừng lại để lấy muối lắng đọng trên mặt hấp phụ. Phương pháp này có thể sử dụng để cô đặc nước mắm.
d). Phương pháp sấy và cô đặc :
Nước mắm được sấy trong các thiết bị chuyên dùng như khay sấy, màng sấy, sấy rulo, sấy phun trong điều kiện chân không bình thường…. Đây là phương pháp làm khô sữa và nước quả đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới. Ta có thể áp dụng phương pháp cô đặc nước quả để cô đặc nước mắm như hệ thống nồi chân không, các thiết bị cô đặc trong nồi áp suất bình thường… Hiện nay chúng ta đang cô đặc nước mắm bằng phương pháp đun trực tiếp, do nhiệt độ cao, thời gian dài, nên làm giảm chất lượng nước mắm đáng kể. Để đảm bảo nước mắm cao đạm có chất lượng cao, khi cô sấy yêu cầu nhiệt độ dưới 70 OC , thời gian càng ngắn càng tốt.
Nước mắm sau khi phơi sấy, cô đặc, độ đạm sẽ tăng lên nhưng hương vị sẽ giảm xuốug rõ rệt, để khắc phục nhược điểm đó ta cho nước mắm cao đạm kéo rút qua lô chượp thơm hoặc chượp cá cơm, cá nục tốt, sẽ hồi phục hương vị cho nước mắm.
1.3. Phương pháp rút đạm trong cá :
Như trên đã nói, với phương pháp chế biến nước mắm thông thường ta không thể nào rút hết đạm trong cá, hoặc muốn rút được gần hết thì phải pha loãng và thời gian kéo rất dài, với kĩ thuật hiện đại các nhà sinh hoá đã áp dụng enzym để phân hủy đạm trong cá một cách triệt để và nhanh chóng, sử dụng các loại nấm mốc và vi khuẩn sinh Protease để thuỷ phân cũng đạt được kết quả tương tự. Người ta đã sử acid hoặc base mạnh để thuỷ phân huỷ thịt cá nhanh chóng, nhưng hiện nay ít dùng trong sản xuất.
Với phương pháp trên chỉ sau 24 giờ đến vài ngày, thịt cá được phân huỷ hoàn toàn đến triệt để, ta sẽ lọc và lấy được dung dịch cao đạm, nhưng lại không có mùi vị, do đó ta sẽ đưa dung dịch cao đạm này kéo rút qua bã chượp tốt sẽ cho ta nước mắm cao đạm. Với phương pháp này cho ta lượng đạm khá đậm đặc do đó có thể dùng nó để pha đầu với các loại nước mắm thấp đạm hơn.
2.  Sản xuất nước mắm cô đặt
2.1. Cô đặc nước mắm bằng phương pháp sấy rulô :
Có nhiều phương pháp cô đặc như đã trình bày ở phần trước. Hiện nay nước ta đã sử dụng thiết bị sấy rulô để cô đặc nước mắm. Trường đại học Thuỷ sản đã thiết kế và chế tạo thiết bị sấy rulô 1 trục dùng hơi nước áp suất 0,2-0,5 atm gia nhiệt, năng suất 100kg/ca.
Theo kinh nghiệm sản xuất cho thấy loại thiết bị có năng suất 100-200kg/ca là vừa phải, nếu cần  nhiều sản phẩm thì nên dùng nhiều thiết bị chứ không nên chế tạo loại thíêt bị lớn hơn sẽ không tiện dụng trong sử dụng và sửa chữa.


7.        Máng đựng thành phẩm                                  15.       Van an toàn
8.        Dao gạt nước mắm cô đặc
Thuyết minh sơ đồ cô đặc nước mắm
Nước mắm từ bể chứa ở kho được bơm(11) lên thùng chứa(10) sau đó được dẫn vào máng chứa nước mắm sấy(6), lượng nước mắm chứa ở máng phải luôn luôn ngập phần dưới của rulô. Hơi nước từ nồi hơi(1) đi vào rulô(4) làm rulô nóng lên sau khi trao đổi nhiệt với nước mắm thì ngưng tụ lại thành hơi nước ở trong rulô, sau đó theo ống xiphông(5) đi ra ngoài nhờ áp lực chêng lệch bên trong và ngoài rulôvà được chứa vào thùng. Nước mắm bám trên mặt rulô được moteur(9) kéo rulô quay 2/3 vòng thì được sấy nóng lên, bay hơi và khô lại, sau đó được dao gạt(8) gạt ra và rơi xuống máng chứa tàhnh phẩm(7).
Tuỳ theo yêu cầu của độ khô của sản phẩm mà có thể điều chỉnh tốc độ quay của rulô, điều này phải được tính toán chính xác. Hơi ẩm của nước mắm bay lên được quạt gió(12) hút và thải ra ngoài trời tránh bớt độc hại cho công nhân làm việc.
Về mặt chất lượng : sự tổ thất Nitơ toàn phần và tổn thất aicd amin của nước mắm cô đặc bằng rulô so với cô bằng nồi chảo đun lửa trực tiếp giảm đi khoảng 20-30%. Về mằt cảm quan thì hơn hẳn, mắm kem có màu vàng sáng hơn, thơm đặc trưng và không bị khét. Về hiệu quả kinh tế cho thấy tổng chi phí trên đơn vị sản phẩm thì mắm kem sản xuất bằng phương pháp rulô rẻ hơn 15-20%
D -MỘT SỐ CẢI TIẾN TRONG QUÁ TRÌNH CHẾ BIẾN NƯỚC MẮM
Phương pháp chế biến nước mắm cổ truyền có thời gian chế biến dài, không kinh tế, còn các phương pháp hóa học, phương pháp vi sinh vật hoặc sử dụng enzyme tuy có rút ngắn được thời gian nhưng hương vị lại rất kém. Mục đích của phương pháp chế biến nước mắm cải tiến là vừa rút ngắn thời gian và nâng cao chất lượng nước mắm mà lại vừa tận dụng được các nguồn nguyên liệu
          I-Sử dụng enzym nhân tạo trong chế biến nước mắm
        Trong nghiên cứu rút ngắn thời gian  chế biến nước mắm có hai hướng.Hướng thứ nhất là lợi dụng nguồn enzym có sẵn bên trong nguyên liệu và tạo mọi điều kiện tối ưu như nhiệt độ, PH, nồng độ muối, đánh khuấy  cho chúng phát triển  
        Hướng thứ hai là cho thêm enzym nhân tạo từ bên ngoài vào, hướng này được niều người nghiên cứu nhưng còn nhiều tồn tại nên việc ứng dụng vào thực tế còn gặp  nhiều khó khăn do ảnh hưởng đến mùi vị của nước mắm
         Nguồn enzym nhân tạo được lấy từ nội tạng gia súc hay của cá đó là các enzym pepsin,tripsin .. Hay lấy từ thực vật như đu đủ : papain, dứa : bromelin…, hay từ các vi sinh vật :  Asp flavus, Asp oryzae, Asp niger…
         Phương pháp sử dụng nguồn enzym trên bằng 2 cách: sử dụng từ dạng thô cho luôn vào nguyên liệu cá với tỷ lệ nhất định : ví dụ cho quả dứa vào vùng muối cá ..,
         Cách thứ  hai; là chiết suất enzym thành dạng tinh hoặc bán tinh chế sau đó cho vào chượp
 II Phương pháp vi sinh vật trong chế biến  nước mắm : Chế biến chượp vi sinh vật
Vi sinh vật học là phương pháp dùng vi khuẩn hay nấm mốc để thuỷ phân thịt cá làm cho giai đoạn chín của chượp nhanh hơn, rút ngắn thời gian chế biến nước mắm:
 Hiện nay nấm mốc được chọn để thuỷ phân thịt cá là Asp orizae.
1- Nguyên Lý : Trong nấm mốc Asp orizae có hệ enzym protease như ; innulase, imertase,asparaginaza, glutaminase, proteolytic.Những enzym này có khả năng thuỷ phân protid thành acid amin ở điều kiện nhiệt độ và PH thích hợp là :
                  Nhiệt độ 37 – 41 oC    ; PH =  6 - 8
Asp orizae có nhiều loại men đường hoá tinh bột, đặc biệt là men thuỷ phân đạm rất cao, vì vậy loại men này được sử dụng nhiều trong sản xuất nước mắm.
-Loại mốc này có thể sản  xuất theo 2 cách :
        +   Cho mốc lên men tự nhiên, nấu cơm lên để nguội, trải ra mâm, đem phơi và lấy nấm  mốc bên ngoài môi trường .Phương pháp này có khuyêt điểm là thời gian tạo mốc kéo dài và xuất hiện nhiều tạp trùng, tạp mốc
         +    Lấy giống mốc Asp orizae đã phân lập rồi cấy vào môi trường thì hoàn toàn được một loại mốc tinh khiết. Phương pháp này nhanh và đản bảo phẩm chất tốt
2- Xử lý nguyên liệu : gồm ca, muối, mốc, nước 
-Cá : Cá nước mặn, cá nước ngọt đều được, rửa sạch bùn đất tạp chất. Nêu cá to phải cắt nhỏ ra.
     -Mốc : Yêu cầu tốc độ sinh trưởng và phát triển nhanh, hình thái khuẩn ty to và mập, không tiết ra độc tố trong quá trình sản xuất, giai đoạn phát triển tốt nhất là  sau 2 ngày  ở nhiệt độ và độ ẩm thích hợp
      - Muối là thành phần cấu tạo nên nước mắm.Nếu dùng một lượng thích hợp thì sẽ có tác dụng kích thích men hoạt động làm cho quá trình chượp nhanh chóng và khống chế được vi sinh vật gây thới rữa.Tốt nhất là nên dùng muối tinh thể nhỏ, màu sáng, độ rắn cao
3) Thuỷ phân :
Tỷ lệ mốc 3-4% so với cá, cá say nhỏ trộn đều với mốc, giai đoạn đầu có thể cho 5-10% nước  để vừa ngấm ướt mốc, tạo điều kiện thuỷ phân được nhanh – để nhiệt độ 37-41 oC trong vòng 10-15 ngày là chượp chín
 Lượng muối cho vào trong giai đoạn thuỷ phân là 4-6% so với cá. Nếu cho thêm nước thì nên cho thêm muối để tránh hiện tượng thối rữa, … Với lượng muối từ 4-6% thì enzym protease của mốc hoạt động được, nếu cao hơn thì sẽ ức chế hoạt động của nấm mốc, còn nếu thấp quá thí sẽ tạo điều kiện cho vi khuẩn gây thối rữa hoạt động.
   4) Lọc :
Dung dịch đã thuỷ phân đem lọc; nước lọc để riêng, bã dung nước nóng rữa 2-3 lần nước rữa có thể để chung với nước lọc .Nước lọc và nước rửa bã hợp lại đun sôi nhỏ và bổ sung muối để đạt đến độ mặn yêu cầu .Để có hương vị nước mắm thì phải đưa nước lọc qua bã chượp cá cơm vài lần .
      5) Một số tồn tại :
- Nước mắm không có hương vị : ta khắc phục bằng phương pháp kéo qua bã chượp
-Nước mắm chua : do nhiều nguyên nhân : trong quá trình chế biến tinh bột bị lên men lactic , các acid yếu,dễ bay hơi hình thành khi cá đã ương.Biện pháp khắc phục là  đun nóng đến 70oC cho acid bay hơi hoặc đem phơi nắng
-Nước mắm bị đắng : có thể do vi sinh vật còn tồn tại hoặc do các loại muối Canxi hoặc Magie có trong muối ăn . Cách khắc phục :dùng than hoạt tính để hấp phụ hoặc để lắng hoặc kéo qua lớp chượp tốt 
III - Giới thiệu Nghiên cứu sản suất chượp gây hương trong công nghệ sản suất nước mắm.
Nhu cầu nước mắm của nhân dân ta ngày càng tăng về số lượng và chất lượng nước mắm sản xuất theo phương pháp cổ truyền có hương vị đặc trưng nên được người tiêu dùng ưa thích. Nhưng do thời gian sản xuất quá dài, hiệu quả kinh tế không cao, chưa đáp ứng được nhu cầu về số lượng cho nên trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về rút ngắn thời gian sản xuất với chu kỳ ngắn:1-3 tháng , giảm tổn thất đạm trong quá trình chế biến , nâng cao độ đạm trong nước mắm. Mặt khác có thể tận dụng các loại cá tạp, cá có giá trị kinh tế thấp , để sản xuất nước mắm. Tuy nhiên nước mắm sản xuất theo phương pháp ngắn gày có nhược điểm là mùi thơm kém đặc trưng do đó chưa hấp dẫn người tiêu dùng nuớc ta. Để khắc phục nhược điểm này việc nghiên cứu sản xuất chượp gây hương cho nước mắm ngắn ngày kém hương đã được tiến hành. Điều đó đã mở ra triển vọng to lớn trong công nghệ sản xuất nước ta trong thới kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hiện nay những thành phần gây mùi đặc trưng cho nước mắm vẫn chưa thể xác định hết được, vì thế vẫn còn nhiều khó  khăn trong các công trình nghiên cứu.

























Share on Google Plus

About Unknown

This is a short description in the author block about the author. You edit it by entering text in the "Biographical Info" field in the user admin panel.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét