
Trang
blog này được lập bởi chủ Quán BỌT TRÁI
CÂY với mục đích chia sẻ tài liệu về công nghệ thực phẩm
cho các bạn cùng khoa cũng như các anh, chị, em và các bạn yêu thích, quan tâm
hay tìm kiếm tài liệu về công nghệ thực phẩm.
NẾU
THẤY TÀI LIỆU CÓ ÍCH, MỜI CÁC
BẠN ĐẾN VÀ ỦNG HỘ QUÁN BỌT TRÁI CÂY ĐỂ CHÚNG TÔI CÓ THÊM KINH PHÍ DUY TRÌ HOẠT
ĐỘNG ĐĂNG TẢI TÀI LIỆU CHO MỌI NGƯỜI!
XIN CHÂN THÀNH CẢM
ƠN!
Quán Bọt Trái
Cây
Địa chỉ: 88/955E Lê Đức Thọ,
P.6, Gò Vấp,
TP.HCM
Hotline:
0935.355.169
Mail: bottraicay@gmail.com
Facebook: http://facebook/bottraicay
Web: http://bottraicay.blogspot.com/
Xem bản đồ đường đi clik vào
đây
Chương
1: NGUYÊN LIỆU VÀ CÔNG NGHỆ ÉP
MÍA
I. NGUYÊN LIỆU
(MÍA)
1. Phân
loại
Cây mía thuộc họ hoà thảo,
giống sacarum, được chia làm 3 nhóm
chính:
-
Nhóm Sacarum officinarum: là giống thường gặp và bao gồm
phần lớn các chủng đang trồng phổ biến trên thế
giới
-
Nhóm Sacarum violaceum: Lá màu tím, cây ngắn cứng và không
trổ
cờ
-
Nhóm Sacarum simense: Cây nhỏ cứng, thân màu vàng nâu nhạt,
trồng từ lâu ở Trung
Quốc
Một số giống mía phổ biến
thế
giới:
-
POJ
- H:
Haoai
- C:
Cuba
- E: Egypt (Ai
cập)
- F: Formose (Đài
Loan)
- CO: Coimbatore (Ấn
Độ)
- CP: Canal Point
(bang Florida,
Mỹ)
Những giống mía nước ngoài
được trồng phổ biến ở Việt
Nam:
- POJ: 3016, 2878,
2725,
2883
- CO: 209, 132, 419,
715,
775
- CP:
3479
Ngoài ra chúng ta đã lai
tạo được một số giống mía cho năng suất cao
như:
- Việt đường 54/143: hàm lượng đường 13,5 –
14,5%, loại chín
sớm
- Việt đường 59/264:
hàm lượng đường 14 – 15%, không trổ
cờ
- VN 65 – 71: năng
suất 70 – 90 tấn/
ha
- VN 65 – 48: năng
suất 50 – 95 tấn/
ha
- VN 65 – 53: năng
suất 45 – 80 tấn/
ha
2. Nguyên liệu
mía
2.1. Hình thái cây
mía
a. Rễ
mía
Thuộc loại rễ chùm, có tác
dụng giữ cho mía đứng, hút nước và các chất dinh dưỡng từ đất để nuôi cây
mía.
b. Thân
mía
Có hình trụ đứng hoặc hơi
cong, tuỳ theo giống mà thân mía có màu sắc khác nhau như: vàng nhạt, màu tím
đậm…
Vỏ mía có một lớp phấn trắng
bao
bọc
Thân mía chia làm nhiều
dóng, mỗi dóng mía dài khoảng 0,05-0,304 m (tuỳ theo giống mía và thời kỳ sinh
trưởng)
Giữa 2 dóng mía là đốt mía,
đốt mía bao gồm đai sinh trưởng, đai rễ, đai phấn mầm, và sẹo
lá.
c. Lá
mía
Lá mọc từ chân đốt mía (dưới
đai rễ) thành hàng so le hoặc theo đường vòng trên thân cây mía lá có màu xanh
(với một số giống cá biệt có thêm màu vàng hoặc tím), mép lá có hình răng cưa,
mặt ngoài có một lớp phấn mỏng và lông bám. Tuỳ thuộc vào giống mía, lá có chiều
dài (0,91 – 1,52 m), chiều rộng (0,01 – 0,30
m).
Lá là trung tâm của quá
trình quang hợp, là bộ phận thở và là nơi thoát ẩm của cây
mía.
2.2. Thu hoạch và bảo quản
mía
a. Mía
chín
Mía được xem là chín khi hàm
lượng đường trong thân mía đạt tối đa, và lượng đường khử còn lại ít
nhất.
Các biểu hiện đặc trưng của
thời kỳ mía
chín:
- Lá chuyển sang màu vàng,
độ dày của lá giảm, các lá sít vào nhau, dóng ngắn
dần.
- Hàm lượng đường giữa
gốc và ngọn xấp xỉ
nhau
- Hàm lượng đường khử
dưới 1%, (có khi chỉ còn
0,3%)
Khi mía chín, tuỳ theo
giống mía và điều kiện thời tiết mà lượng đường này duy trì khoảng 15 – 60 ngày.
Sau đó, lượng đường bắt đầu giảm dần (giai đoạn này gọi là mía quá lứa, hay mía
quá
chín).
b. Thu hoạch
mía
Ở các nước phát triển như
Mỹ, Đức… người ta thu hoạch mía bằng cơ giới là chủ yếu, nhiều loại máy liên hợp
vừa đốn mía, chặt ngọn và cắt khúc được sử dụng rộng
rãi.
Nước ta hiện nay, việc thu
hoạch mía vẫn còn bằng phương pháp thủ công, dùng dao chặt sát gốc và bỏ
ngọn.
Sau thu hoạch hàm lượng
đường giảm nhanh, do đó mía cần được vận chuyển ngay về nhà máy và tiến hành ép
càng sớm càng
tốt.
Để hạn chế tổn thất đường
sau khi thu hoạch, có thể áp dụng các biện pháp
sau:
- Chặt mía khi trời
rét hoặc hơi
rét
- Khi chặt cho mía ngã
theo chiều của luống, các cây mía gối lên nhau (ngọn cây này phủ trên gốc cây
kia)
- Chất mía thành đống
có thể giảm sự phân giải
đường
- Dùng lá mía thấm
nước để che trong lúc vận chuyển, và có thể dùng nước tưới phun vào
mía.
II. CÔNG NGHỆ ÉP MÍA
1. Lấy nước mía bằng phương
pháp
ép
Đây là phương pháp được sử
dụng phổ biến ở các nhà máy đường hiện
nay
Nguyên lí của phương pháp
này là dùng lực cơ học làm biến đổi thể tích cây mía, từ đó phá vở tổ chức tế
bào để lấy nước
mía
Phương pháp ép bao gồm các
công đoạn: xử lí mía, ép giập, ép
kiệt.
1.1. Các công đoạn lấy nước
mía
a. Xử lí
mía
Nhằm tạo điều kiện cho quá
trình ép dễ dàng hơn, nâng cao năng suất và hiệu suất ép. Hệ thống xử lí mía
trước khi ép bao gồm các quá trình
sau:
· San bằng mía: Do đưa xuống băng tải, mía ở
trạng thái lộn xộn, không đồng đều, do đó cần phải san bằng lớp mía trên băng
tải, đảm bảo độ đồng đều của lớp mía, tăng mật độ
mía.
· Băm mía: Mía được băm thành từng mảnh nhỏ nhằm
phá vỡ lớp vỏ cứng của cây mía làm tế bào mía lộ ra, đồng thời san mía thành lớp
ổn định trên băng tải và nâng cao mật độ mía trên băng tải. Nhờ
vậy:
- Nâng cao năng suất
ép
- Nâng cao hiệu suất ép
mía
· Đánh tơi: Sau khi qua máy băm, lượng mía chưa
được băm nhỏ còn nhiều nên chúng cần phải qua máy đánh tơi để phá vỡ hơn nữa tổ
chức tế bào của cây mía, và làm tăng mật độ mía đưa vào máy ép. Nếu dùng máy
đánh tơi, hiệu suất ép có thể tăng khoảng
1%.
b. Ép
giập
Ép giập vừa có tác dụng lấy
nước mía ra từ cây mía (khoảng 60 – 70%), vừa làm cho mía giập vụn hơn. Đồng
thời thu nhỏ thể tích lớp mía, cung cấp mía đều đặn cho các máy ép sau, tạo điều
kiện cho các máy ép sau làm việc ổn định, làm tăng năng suất, hiệu suất ép và
giảm bớt công suất tiêu
hao.
c. Ép
kiệt
Mục đích chủ yếu của giai
đoạn này là lấy đến mức tối đa lượng nước mía có trong cây
mía.
1.2. Phương pháp lấy nước
mía (gồm 2 phương
pháp)
a. Phương pháp ép
khô
Đây là phương pháp ép lấy
nước mía mà không sử dụng nước thẩm thấu, chỉ dùng áp lực làm vở tế bào để lấy
nước mía, do đó hiệu suất lấy đường thấp (khoảng 92 – 95%) và một lượng nhỏ
đường còn nằm trong tế bào không thể lấy ra
được.
Nước mía lấy được (do không
bị pha loãng) nên thuận lợi cho quá trình bốc hơi, tiết kiệm được năng lượng bốc
hơi.
Phương pháp ép khô chỉ sử
dụng ở các nhà máy đường thủ công, trong phòng thí
nghiệm…
b. Phương pháp ép
ướt (có sử dụng nước thẩm
thấu)
Để lấy được nhiều đường ra
từ cây mía, thì việc phun nước thấm vào bã mía được xem là biện pháp hiệu
quả.
Khi mía bị ép, màng tế bào
bị rách và co lại, đồng thời nước mía chảy ra. Sau khi ra khỏi máy ép, các tế
bào nở ra và có khả năng hút nước mạnh. Chính vì vậy, mà người ta đã phun nước
vào lớp bã để hoà tan một lượng đường còn lại trong tế bào, qua lần ép sau nước
đường pha loãng được lấy ra, và tiếp tục như vậy cho đến khi đường được lấy ra
với mức cao
nhất.
Có 3 phương pháp ép
ướt:
· Phương pháp ép thẩm thấu
đơn
Chỉ dùng nước
nóng phun ngay vào bã khi ra khỏi miệng ép (trừ máy ép cuối cùng), do đó khả
năng lấy đường từ mía là rất
cao.
Tuy nhiên
lượng nước thẩm thấu đưa vào lớn, nước mía hỗn hợp bị pha loãng, dẫn đến khó
khăn cho quá trình bốc hơi như: tiêu hao nhiều năng lượng, thời gian bốc hơi kéo
dài, đồng thời làm cho một lượng lớn đường bị chuyển hoá và phân
hủy.

· Phương pháp ép thẩm thấu
kép
Đây là phương
pháp có dùng nước mía pha loãng làm nước thẩm thấu, thường được áp dụng cho hệ
thống ép ở các nhà máy có 4 máy ép. Đối với phương pháp này, nước nóng được phun
vào bã khi ra khỏi miệng ép của máy ép thứ 3, nước mía loãng ép ra từ máy 4 được
bơm trở lại làm nước thẩm thấu cho bã ra khỏi máy ép thứ 2, nước mía loãng ép ra
từ máy ép thứ 3 được bơm trở lại làm nước thẩm thấu cho bã ra ở máy ép thứ nhất.
Nước mía lấy ra từ máy 1 và máy 2 được tập trung lại thành nước mía hỗn
hợp.

Áp dụng ở các nhà máy có từ
5 máy ép trở lên, và nâng công suất
ép.
1.3. Hiệu suất và năng suất
ép
mía
a. Hiệu suất
ép
Là số liệu quan trong
để đánh giá khả năng làm việc của phân xưởng ép, nó đánh giá hiệu quả thu hồi
đường từ mía khi qua dàn ép. Hiện nay hiệu suất ép ở các nhà máy thường đạt từ
92 –
97%.
Công thức tính hiệu suất
ép

Các yếu tố chính ảnh hưởng
đến hiệu suất
ép
- Xử lí nước mía trước
khi ép: Trước khi ép, mía được xử lí bằng các biện pháp: san bằng, băm mía, đánh
tơi nhờ vậy làm tăng hiệu suất
ép.
- Số lượng trục ép: Số
lượng trục ép nhiều đồng nghĩa với mía được ép nhiều lần do đó hiệu suất ép mía
tăng, tuy nhiên mức tăng hiệu suất ép không tỷ lệ theo đường thẳng mà chỉ tăng
nhanh từ 2 – 15 trục, từ trục thứ 16 trở đi hiệu suất ép tăng rất
ít.
- Tốc độ quay của trục ép: Có ảnh hưởng tương
đối rõ đến hiệu suất ép. Thật vậy, với chiều dày lớp mía nhất định nếu ta tăng
tốc độ quay của trục ép thì hiệu suất ép sẽ giảm. Tuy nhiên sự thay đổi này là
rất nhỏ nếu ta sử dụng tốc độ trục quay dưới 5
vòng/phút.
- Áp lực trục đỉnh:
Khi áp lực trục đỉnh tăng, khả năng lấy nước mía
tăng.
- Thẩm thấu: Có tác
dụng lớn đến hiệu suất ép, nếu lượng nước thẩm thấu tăng thì hiệu suất ép
tăng.
b. Năng suất
ép
Là số tấn mía được ép trong một đơn vị thời
gian với hiệu suất ép nhất định.
Công thức tính năng suất ép:

Trong đó
:
C: Năng suất ép
,(tấn/giờ)
D: Đường kính trục ép
,(m)
n: Tốc độ quay trục ép
,(vòng/phút)
L: Chiều dài trục ép
,(m)
K: Độ dài miệng ép
,(m)
d: Trọng lượng riêng của bã
,(tấn/m3)
F: Phần xơ trong bã
,(%)
f: Phần xơ trong mía
,(%)
Ä Các yếu tố ảnh hưởng đến năng
suất
ép
- Xử lí nước mía trước
khi ép: Với cùng một miệng ép, nếu mía được xử lí tốt, mật độ mía vào trục ép
tăng và mía vào trục ép dễ dàng do đó năng suất
tăng.
- Hàm lượng xơ trong
mía: Số lượng và bản chất xơ trong mía đều có ảnh hưởng đến năng suất. Thật vậy,
phần xơ quyết định trở lực giữa mía và trục ép, vì vậy khi phần xơ nhiều thì lớp
mía dày nên năng suất ép nhỏ. Xơ cứng hay mềm, độ xé nát của mía sau khi sử lí
sơ bộ sẽ ảnh hưởng đến việc mía vào miệng ép, nếu mía vào máy ép dễ dàng (trục
ép không bị nghẹn) thì năng suất ép tăng và ngược
lại.
- Tốc độ và kích thước
trục ép: Năng suất tỷ lệ thuận với tốc độ quay và kích thước trục ép. Trong cùng
điều kiện, tốc độ trục ép tăng thì năng suất tăng. Khi đường kính trục càng lớn
thì khả năng mía vào trục ép càng tốt, trục càng dài thì diện tích ép càng lớn
do đó năng suất
tăng.
- Răng trục ép: Răng
trục ép làm tăng diện tích ép của trục, hình dạng và độ sâu của răng có ảnh
hưởng đến việc kéo mía vào máy ép từ đó làm tăng năng
suất.
- Thẩm thấu: Khi dùng
nước thẩm thấu nhiều làm cho bã trương lên, khó vào miệng ép, năng suất ép
giảm.
2. Lấy nước mía bằng phương
pháp khuếch
tán
Đây là phương pháp được sử
dụng trong tất cả các nhà máy trích li đường từ củ cải đường. Hiện nay, nhiều
nhà máy đường mía trên thế giới đã dùng phương pháp khuếch tán để trích li đường
từ mía. Ở nước ta, phương pháp khuếch tán được sử dụng đầu tiên tại nhà máy
đường mía La
Ngà.
Tuy gọi là phương pháp
khuếch tán nhưng ở các nhà máy đường mía không phải hoàn toàn dựa vào nguyên lí
khuếch tán như ở các nhà máy đường củ cải. Vì thời gian khuếch tán đường của lát
mía tăng gấp 3 lần so với lát củ cải (cùng kích thước) nên nếu chỉ dùng phương
pháp khuếch tán để lấy đường trong mía thì thời gian sẽ kéo dài gây ảnh hưởng
đến chất lượng nước
mía.
Trên thực tế, thiết bị
khuếch tán chỉ có thể thay thế một số bộ trục ép (ở giữa công đoạn ép) nên có
thể coi đây là phương pháp kết hợp giữa ép và khuếch
tán.
Có 2 phương
pháp khuếch tán mía chủ yếu
0 nhận xét:
Đăng nhận xét