Trang blog này được lập bởi chủ Quán BỌT TRÁI CÂY với mục đích chia sẻ tài liệu về công nghệ thực phẩm cho các bạn cùng khoa cũng như các anh, chị, em và các bạn yêu thích, quan tâm hay tìm kiếm tài liệu về công nghệ thực phẩm.
NẾU
THẤY TÀI LIỆU CÓ ÍCH, MỜI CÁC
BẠN ĐẾN VÀ ỦNG HỘ QUÁN BỌT TRÁI CÂY ĐỂ CHÚNG TÔI CÓ THÊM KINH PHÍ DUY TRÌ HOẠT
ĐỘNG ĐĂNG TẢI TÀI LIỆU CHO MỌI NGƯỜI!

XIN CHÂN THÀNH CẢM
ƠN!
Quán Bọt Trái
Cây
Địa chỉ: 88/955E Lê Đức Thọ,
P.6, Gò Vấp,
TP.HCM
Hotline:
0935.355.169
Mail:
bottraicay@gmail.com
Facebook: http://www.facebook.com/BotTraiCay
Web: http://bottraicay.blogspot.com/
Xem bản đồ đường đi clik vào đây
Sữa
là thức ăn tự nhiên có giá trị dinh dưỡng hoàn hảo được vắt từ vú động vật. Sữa
chứa hầu hết các chất dinh dưỡng cần thiết cho người như protein, gluxit, lipit,
vitamin, các muối khoáng. Những hợp chất này rất cần thiết cho khẩu phần thức ăn
hằng ngày của con người. Do đó các sản phẩm từ sữa có một ý nghĩa quan trọng đối
với dinh dưỡng của con người nhất là đối trẻ em, người già và người bệnh. Từ
sữa, người ta có thể sản xuất ra nhiều loại thực phẩm khác nhau như sữa bột, sữa
cô đặt, sũa lên men, pho mai, bơ, kem…
Trong đó, sữa bột thời gian bảo quản rất dài,
các nhà sản xuất tiết kiệm được một phần lớn cho chi phí vận chuyển sữa do sản
phẩm có khối lượng giảm đi nhiều lần khi ta so sánh với nguyên liệu sữa tươi ban
đầu. Sữa bột có một tính chất quan trọng nhất đó là độ hoà tan.
Sữa
bột đã xuất hiện từ lâu đời trên thế giới: từ thế kỉ 13-14 người Mông Cổ đã sấy
sữa dưới ánh nắng mặt trời. Năm1902 Just Hatmaker đã phát minh ra thiết bị sấy
trục để sản xuất sữa bột.Thị trường Việt Nam hiện nay có hai nhóm sản phẩm là
sữa bột nguyên kem và sữa bột gầy thời gian bảo quản sữa bột nguyên kem là 6
tháng, sữa bột gầy lên đến 3 năm.
Sữa
bột không những được sử dụng tại gia đình để pha chế mà còn là nguyên liệu quan
trọng trong nhiều nghành công nghiệp khác nhau như trong sản xuất sữa tái chế và
các sản phẩm chế biến từ sữa như: sữa lên men, sữa cô đặc, kem…trong công
nghiệp sản xuất bánh nướng, công nghiệp sản xuất kẹo, chocolate, sôcôla, xúc
xích.
Ở
trong đồ án này em sẽ đề cập đến một số vấn đề sau: nguyên liệu sữa, vi sinh vật
trong sữa, quá trình công nghệ sản xuất sữa bột, thiết bị chính trong sản xuất
sữa bột .
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. NGUYÊN LIỆU SỮA ( các bạn có thể tham khảo thêm sách của thầy lê văn việt mẫn (CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT CÁC SẢN PHẨM TỪ SỮA VÀ THỨC UỐNG))
1.1.1. Giới thiệu về sữa bò
Sữa
là một chất lỏng sinh lý được tiết ra từ tuyến vú của động vật và là nguồn thức
ăn để nuôi sống động vật non. Nắm được điều này nghành công nghiệp chế biến sữa
đã sản xuất ra nhiều sản phẩm dựa trên ba nguồn nguyên liệu chính: sữa bò, sữa
cừu, sữa dê. Ở nước ta sữa bò là chủ yếu.
Sữa là một chất lỏng đục. Độ đục của sữa là do các chất béo,
protein, một số khoáng tạo nên. Màu sắc của sữa chủ yếu phụ thuộc vào hàm
lượng
-caroten tạo nên. Sữa bò
thường có màu sắc từ trắng đến vàng nhạt. Sữa gầy thường trong hơn và ngả màu
xanh nhạt. Sữa bò có mùi đặc trưng và vị ngọt nhẹ. 


1.1.2 Thành phần cửa sữa
Sữa
là một hỗn hợp bao gồm các thành phần chính: nước, lactose, protẹin, một số chất
béo. Ngoài ra sữa còn chứa một số khác với hàm lượng nhỏ như các hợp chất chứa
nitơ phi protein, vitamin, hooc mon, chất màu và khí. Hàm lượng các chất trong
sũa có thể giao động trong một khoảng rộng.
1.1.2.1 Nước:
-
Nước tự do chiếm 96 – 97% tổng lượng nước.Nó có thể được tách trong quá trình
cô đặc, sấy vì không có liên kết hoá học với chất khô. Khi bảo quản sữa bột,
nước tự do xâm nhập vào làm cho sữa bột bị vón cục.
-
Nước liên kết chiếm một tỉ lệ nhỏ, khoảng 3 -4%. Hàm lượng nước liên kết phụ
thuộc vào các thành phần nằm trông hệ keo: protein, các phosphatit,
polysacarit.
1.1.2.2 Đường lactose:
Glucid của sữa là lactoza hay còn gọi là đường
sữa, trung bình mỗi lít sữa chứa 50g trong một lít sữa. Lactose là một
đisaccaride do một phân tử glucose và một phân tử galactose liên kết tạo thành.
Lactza trong sữa có ý nghĩa quan trọng vì nó dễ bị một số vi sinh vật gây lên
men tạo acid lactic và các sản phẩm khác như acetin, metin, diacetin tạo nên mùi
vị của các sản phẩm sữa.
Trong
sữa đường lactose tồn tại dưới hai dạng :
-
Dạng
-lactose mono hydrat
C12H22O11.H2O

- Dạng
-lactose anhydrous
C12H22O11

Ở 20 oC
: 40% và
: 60%. Khi thây đổi nhiệt độ
thì có sự chuyển đổi từ dạng
sang
dạng
và ngược
lại.




Bảng 1.1 Tỷ lệ hàm lượng giữa
-lactose monohydrate
và
-lactose anhydrous trong sữa
phụ thuộc vào giá trị PH và nhiệt độ của sữa :


Nhiệt
độ dung dịch (oC)
|
15
|
20
|
50
|
70
|
90
|
Tỷ lệ
thành phần
![]() ![]() |
1:1.63
|
1:1.59
|
1:1.51
|
1:1.45
|
1:1.40
|
Trong
sữa đường Lactose ở dạng hoà tan và là đường khử. Độ ngọt của lactose thấp hơn
nhiều so với các đisaccaride và monosacride khác (kém 30 lần sacaroza). Lactose
có thể bị thuỷ phân thành hai đường monosacaride là glucose và galactose do
Enzym
-galactosedase.

Ngoài
ra trong sữa bò còn chứa các đường khác nhưng với hàm lượng rất
thấp
1.1.2.3 Các hợp chất có chứa Nitơ:
Thành
phần các hợp chất có chứa nitơ trong sữa được trình bày trong
bảng:
Các
hợp chất chứa nitơ trong sữa bò (100%)

a. Casein:
Casein là nhân tố quan trọng nhất của protid
trong sữa, là thành phần protein chủ yếu có trong sữa và là các hạt hình cầu có
kích thước 40 - 200µm. Chúng tồn tại dưới dạng micelle. Mỗi
micelle chứa 65% nước, phần còn lại là các loại caseinvà khoáng (canxi, magie,
photphate, citrate), casein chiếm 2,7%. Là protein có tính axit vì phân tử của
chúng chứa nhiều gốc axit glutamic và axit aspartic.









b. Prôtêin hoà tan:
Albumin 0,4% và Glubulin 0,2% bị đông tụ khi
đun nóng sữa lên đến 80oC.



Peptone-protose: bao gồm những phân đoạn protein khác nhau (
0,8-1,5g/l)
Immunoglobulin: trong sữa bò có ba loại là IgG, IgA, IgM.
Trong đó IgG có hàm lượng cao nhất, IgA có chức năng chống nhiễm trùng đường
ruột (0,5-0,8g/l).
Serum-albumin: là protein có phân tử lượng lớn có nguồn gốc
từ máu rất mẫn cảm với nhiệt độ.
Ngoài
ra trong sữa còn có protein màng, hàm lượng của chúng rất thấp.
c. Enzym:
Enzym
do tuyến vú tiết ra hoặc do vi sinh vật trong sữa tổng hợp nên. Sự có mặt của
các enzym là nguyên nhân gây biến đổi thành phần hoá học của sữa trong quá trình
bảo quản, dẫn đến làm giảm chất lượng hoặc hư hỏng sữa. Nhưng một số Enzym
trong sữa có vai trò kháng khuẩn như lactoperoxydase, lysozyme. Hàm lượng vi
sinh vật càng nhiều thì thành phần enzym càng đa dạng và hoạt tính càng cao, có
hơn 60 Enzym trong sữa.
Lactoperoydese: Enzym này xúc tác phản ứng
chuyển hoá oxy từ H2O2đến các chất oxy hoá khác, có PH tối
thích là 6,8, hàm lượng trung bình trong sữa là 30mg/l, bị vô hoạt hoá ở
80 oC trong vài giây.
Catalase: Enzym này luôn có trong sữa do tuyến vú tiết
ra, nó xúc tác phản ứng phân huỷ H2O2 thành
nước và oxy tự do. Sữa nhiễm vi sinh vật thường có hoạt tính catalase rất cao,
có PH tối thích 6,8-7. Catalase bị vô hoạt ở 75 oC trong
thời gian một phút, 65 – 68 oC sau 30
phút.
Lipase: Enzym quan trọng nhất trong sữa được kí hiệu
là mLPL, là một glycoprotein, PH tối thích là 8.9, hàm lượng trong sữa chỉ
khoảng 1-2mg/l, nó chỉ xúc tác thuỷ phân liên kết ester trong cơ chất
triglycerid ở dạng nhũ tương tại bề mặt tiếp xúc pha giữa chất béo và nước, làm
tích luỹ các axit béo tự do trong sữa, quá trình phân giải tiếp theo các axit
béo này làm cho sữa và sản phẩm từ sữa có vị đắng, mùi ôi khét và mùi kim loại
.
Phosphatase : Chúng xúc tác thuỷ phân liên kết ester giữa
axit phosphoric và glycerin, có hai dạng:
Phosphatase kiềm có PH tối thích là 9,6 có
khả năng tái hoạt hoá. Bị thuỷ phân ở 30 oC trong 30
phút hoặc 80oC tức thì.
Phosphatase acid : Enzym này có PH tối thích là
4,7 và là enzym bền nhiệt nhất trong sữa. Để vô hoạt hoá hoàn toàn ta cần gia
nhiệt sữa đến 96 oC trong 5 phút, bị vô hoạt bởi
NaF
Trong
suốt chu kì tiết sữa bò, hoạt tính phosphatase axit trong sữa khá ổn định,
phosphatase kiềm tăng dần vào cuối chu kì tiết sữa.
Lysozym: bền về nhiệt, xúc tác phản ứng
thuỷ phân liên kết
giữa acid muramic và
glusamine của mucopolysaccride trong màng tế bào vi khuẩn, từ đó gây phân huỷ tế
bào. Lysozym có PH tối thích là 7,9, hàm lượng trung bình 130µg/l.

Proteaza :Enzym này xúc tác phản ứng thuỷ phân protein.
Có hai loại protease: proteaza kiềm và proteaza acid. Chúng thường liên kết với
casein và cũng bị kết tủa ở PH = 4.6, proteaza axit có PH tối thích 4,0, còn
protease kiềm là 7.5 – 8.0. Chúng bị vô hoạt hoàn toàn ở 80oC sau 10
phút.
1.1.2.4. Chất
béo: Chiếm 3,78
%, 25 -45 g/l, gồm Lipit đơn giản
chiếm 35-45g, dễ tiêu hoá. Lipit đơn giản gồm cacbon, hydro và oxy và Lipit
phức tạp chiếm 0,3-0,5%; có cacbon, hydro, oxy, photpho, nitơ, lưu
huỳnh.
Bảng 1.2 Thành phần chất béo có trong sữa
bò:
Thành phần
|
Hàm
lượng (% so với tổng khối lượng chất béo)
|
Ghi chú
|
Lypid
đơngiản
-Glyceride: triglyceride
Diglyceride
Monoglycerride
-Cholesteride
-Ceride
|
98,5
95-96
2-3
0,1
0,03
0,02
|
Ester
của acid béo và cholesterol
Ester
của acid béo và rượu cao phân tử
|
Lipid
phức tạp
|
1,0
|
|
Các
hợp chất tan trong chất béo
-
Cholesterol
-
Acid béo tự do
-
Hydrocarbon
-
Vitamin A,D,K,E
-
Rượu
|
0,5
0,3
0,1
0,1
vết
vết
|
|
Các
chất béo trong sữa thường có dạng hình cầu, đường kính dao động từ 0.1-0.2
m. Trong 1ml sữa có khoảng
10-15 tỷ hạt cầu béo. Do đó người ta có thể xem sữa là hệ nhũ tương dầu trong
nước. Các màng này có vai trò làm bền hệ nhũ tương trong sữa.

Các
hạt cầu béo có thành phần chủ yếu là glyceride, phospholipit, protein, axit
nucleic, enzym, các nguyên tố vi lượng, nước.
Nếu
ta không đồng hoá sữa trong thời gian bảo quản thì các hạt cầu béo có xu hướng
kết hợp lại với nhau. Khi đó trong sữa sẽ tồn tại hai pha tách biệt: pha trên
cùng với thành phần chủ yếu là lipit; pha dưới với các thành phần có tỉ trọng
lớn là nước và một số chất hoà tan trong sữa.
1.1.2.4 Khoáng
:
Hàm
lượng chất khoáng trong sữa dao động từ 8-10g/l. Các muối trong sữa dạng hoà tan
hoặc dung dịch keo dễ bị phá vỡ bởi nhiệt độ và PH, các muối khoáng trong sữa
hầu hết ở dạng dễ đồng hoá.
Trong
số các nguyên tố khoáng trong sữa, chiếm hàm lượng cao nhất là Ca, P, Mg, K. MỘt
phần chúng tham gia vào cấu trúc micelle phần còn lại tồn tại dưới dạng muối hoà
tan trong sữa.
Các
nguyên tố khác như: K, Na, Cl… đóng vai trò chất điện ly. Ngoài ra trong sữa còn
có các nguyên tố khác như Zn, Al, I, Cu, Mn, Ag… chúng cần thiết cho quá trình
dinh dưỡng của con người.
1.1.2.5
Vitamin
Tuỳ
theo khả năng hoà tan trong nước hay trong chất béo chia các vitamin trong
sữa chia làm hai nhóm:
Vitamin hoà tan trong nước: B1,
B2,B3, B5, B6, C, H
…
Vitamin hoà tan trong chất béo: A, D,
E
Nhìn
chung hàm lượng các vitamin nhóm B trong sữa bò thường ổn định. Nhưng hàm lượng
vitamin tan trong chất béo lại bị ảnh hưởng sâu sắc bởi thành phần thức ăn và
điều kiện thời tiết.
Bảng 1.3 Thành phần các vitamin trong
sữa
Vitamin
|
mg/l
|
Vitamin
|
|
A
D
E
![]() ![]() ![]() ![]() |
0,3
0,001
1,4
0,4
1,7
0,5
0,005
|
![]() ![]()
C
H
M
|
1
3
20
0,04
0,05
|
1.1.2.6.
Hormone
Hormone do các tuyến nội tiết tiết ra và giữ
vai trò quan trọng trong quá trình sinh trưởng của động vật. Trong sữa bò có
nhiều loại hormone được chia làm ba nhóm: proteohormone, hormone peptide,
hormone steoride.
1.1.2.7. Các hợp chất
khác:
Trong
sữa bò còn chứa các chất khí, chủ yếu là CO2,
O2 và N2. tổng hàm lượng của chúng chiếm 5-6%
thể tích sữa hay khoảng 70ml/lit trong đó 50-70% là
, 5 – 10% là oxy và 20 – 30%
là nitơ. Sữa mới vắt ra chứa một lượng lớn khí, sau đó sẽ giảm dần và đạt mức
bình thường, trong các loại khí này thì chỉ có oxy là ảnh hưởng xấu vì nó có thể
là nguyên nhân phát triển của các quá trình oxy hoá. Khi gia nhiệt thì xuất hiện
hiện thượng bài khí khiến cho độ axit của sữa giảm. Các chất khí trong sữa
thường tồn tại ở ba dạng: dạng hoà tan, dạng liên kết, dạng phân tán. Sắc tố
xanh clorophin, màu trắng do sự khuyếch tán ánh sáng bởi mĩen
protêin.

1.2. HỆ VI SINH VẬT TRONG
SỮA
Bao gồm các loại có lợi và các loại có hại,
nguồn gốc của vi sinh vật trong sữa xuất phát từ: Bầu vú của động vật cho sữa,
người vắt sữa, thiết bị vắt sữa, thiết bị chứa, môi trường chuồng trại nơi diễn
ra quá trình vắt sữa và trong sản phẩm chế biến sữa.
1.2.1 Các vi sinh vật bình thường
của sữa: sống trong sữa ở điều kiện bình thường, có thể nhiễm
nội sinh hoặc ngoại sinh và chủ yếu là vi khuẩn.
1.2.2.1
Procaryote:
Vi khuẩn lactic:
Vi
khuẩn lactic có dạng hình cầu hoặc hình gậy đứng riêng lẻ hoặc tạo chuỗi, Gram
(+) không có bào tử, không di động, nhiệt độ sinh trưởng tối ưu
25-47 oC. Hô hấp yếm khí tuỳ tiện hoặc hiếu khí, không
sinh calataza, không phân huỷ
, không khử nitrat, không
phân giải protêin trong sữa, lên men đường tạo thành axit lactic và các sản phẩm
khác. Để tồn tại trong sữa, vi khuẩn lactic tổng hợp năng lượng ATP từ cơ chất
lactose.

Có
hai nhóm vi khuẩn lactic: vi khuẩn lactic đồng hình và vi khuẩn lactic dị hình
.Trong một số sản phẩm từ sữa như phô mai, bơ, yoghurt người ta sử dụng vi khuẩn
lactic để thực hiện một số chuyển hoá cần thiết . Còn các vi khuẩn lactic có
mặt trong sữa tươi sau khi vắt được xem là VSV tạp nhiễm. Chúng sẽ tạo ra những
chuyển hoá ngoài ý muốn của nhà sản xuất trong quá trình bảo quản sữa trước khi
chế biến, làm thay đổi thành phần và giá trị cảm quan của sữa.
Các vi khuẩn sinh
hương: Gồm nhóm
vi khuẩn trong quá trình hoạt động có khả năng tạo trong sữa các axit bay hơi
như axt acetic, axit propyonic và nhiều chất thơm(diacetin, các ete). Các vi
khuẩn sinh hương gồm có streptococcus citrovorusphát triển ở
nhiệt độ thích hợp là 30oC. Streptococcus
paracitrovorus và Streptococcus
dicetalactis nhiệt độ thích hợp để phát triển là
35oC có khả năng tạo diacetin cho sản phẩm có mùi dễ chịu. Các vi
khoẩn này gây đông tụ sữa sau 16 – 18 giờ.
Các
vi hkuẩn gây đắng: (Streptococcus
liquefaciens): nhiệt độ thích hợp 30oC, có khả năng
tạo các axit, tạo enzym đông tụ sữa. Enzym và axit này tác dụng đồng thời lên
protêin của sữa làm cho sữa đặc lại thành cục và độ axit giảm, loại này phát
triển trong sữa gay ra quá trình pepton hoá do đó tạo vị đắng khó chịu cho sản
phẩm.
Vi khuẩn
coliform:
Coliform thuộc nhóm vi khuẩn Gram (-), kị khí
tuỳ tiện,nhiệt độ sinh trưởng tối ưu:30 ÷ 44 oC.
Trong
sữa, vi khuẩn coliform sẽ chuyển hoá đường lactose tạo axit lactic và các hợp
chất hữu cơ khác, khí
CO2 , H2… Chúng làm
phân giải protein trong sữa tươi tạo ra các sản phẩm khác làm cho sữa có mùi khó
chịu. Ở 75 oC trong khoảng 20 giây vi khuẩn colifrom sẽ
bị tiêu diệt hoàn toàn.
Vi khuẩn sinh acid butyric
(clostridium)
Là vi
khuẩn Gram(+) thuộc nhóm kị khí bắt buộc, có khả năng sinh bào tử. Nhiệt độ sinh
trưởng tối thích là 37oC. Vi khuẩn clostrudium chuyển hoá dường trong
sữa thành nhiều sản phẩm khác nhau như các axit hơi, acid butyric, butalnol,
etalnol,
,…làm sữa có mùi khó chịu,
làm thay đổi thành phần hoá học của sữa và giá trị cảm quan của sữa trong quá
trình bảo quản. Có khả năng tạo bào tử và có khả năng chịu nhiệt
cao.

Vi khuẩn
propionic
Chúng
có hình cầu, xếp thành đôi trong hoặc chuỗi, Gram(+)thuộc nhóm kị khí không bắt
buộc. Nhiệt độ sinh trưởng tối ưu là 30 oC. Vi khuẩn
propionic chuyển hoá đường thành axit propionic, axit acetic, khí
CO2 … làm hư hỏng thực phẩm, nhiệt độ phát triển thích
hợp là 30-35 oC có khả năng sinh
vitamin
. Hầu hết các vi khuẩn
propionic bị tiêu diệt khi thanh trùng sữa ở 75oC trong thời gian 20
giây.

Vi khuẩn gây
thối:
Đó
là các vi khuẩn có khả năng sinh tổng hợp protease ngoại bào trong môi trường
sữa, không gây lên men đường sữa, là vi khuẩn sinh bào tử, có khả năng sinh ezym
protease xúc tác quá trình thuỷ phân protein tạo ra các sản phẩm polypeptit,
peptit, acid amin. Các acid amin tiếp tục bị phân huỷ ttạo NH3,
H2S … làm cho sữa có mùi khó chịu.
1.2.2.2.
Eucaryote
Nấm
men:
Là
những cơ thể đơn bào có hình cầu, oval, hoặc hình trứng. Chúng phát triển trong
sữa và gây ra những biến đổi về thành phần hóa học trong sữa, gây phản ứng lên
men đường lacto tạo
và rượu. Một số nấm men
thuộc họ Mycoderma có khả năng tạo enzym phân
huỷ protêin, lipit làm cho các sản phẩm sữa có vị đắng khó
chịu.

Nấm sợi:
Có
dạng hình sợi phân nhánh. Hầu hếtcác nấm sợi thuộc nhóm hiếu khí bắt buộc, nhiệt
độ sinh trưởng tối ưu 20-30 oC. Việc nhiễm nấm sợi vào
sữa gây nhiều khó khăn trong sản xuất các sản phẩm từ sữa đặc biệt trong sản
xuất pho mai và ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Có khả năng phân giải
protêin, lipit làm cho sữa có vị đắng. Chúng phát triển sau nấm men nên chỉ có
trong sữa đã hư hỏng nặng.
1.2.2 Hệ vi sinh vật không bình thường trong
sữa:
Sữa bị axit hoá: Do sự biến đổi lactoza thành acid lactic là
do Streptococcus lactic,
Micrococcus
Sữa
bị phân giải protêin: một số nấm như Geotrichum, Penicillium,
Mucor có khả năng phân giải acid lactic dẫn đến đạm dễ bị thoái
hoá.
Micrococcus caseiamara, nấm men torula
amara làm cho sữa đắng, bị ôi.
1.3. BẢO QUẢN SỮA TRƯỚC KHI CHẾ
BIẾN
Sữa
là một hỗn hợp chứa nhiều hợp chất hữu cơ và vô cơ khác nhau. Trong quá trình
bảo quản, các hợp chất sữa sẽ bị biến đổi dẫn đến sự thay đổi về chất lượng của
sữa. Các tế bào VSV là nguyên nhân dẫn đến các biến đổi về thầnh phần các chất
có trong sữa.
Để
hạn chế các biến đổi làm hư hỏng chất lượng sữa chúng ta cần tiến hành làm lạnh
nhanh sữa, nhiệt độ bảo quản không được lớn hơn 4 oC.
Ngoài ra, hàm lượng VSV trong sữa phải dược khống chế ở mức thấp nhất. Những va
chạm cơ học mạnh, sự tiếp xúc của oxy và ánh sáng mặt trời với sữa phải được hạn
chế nhằm bảo toàn các chỉ tiêu cảm quan, hoá học và hoá lý trong quá trình bảo
quản sữa trước khi chế biến.
Ngoài
vi sinh vật còn có các tạp chất khác nhau như rơm, phân, kim loại, lông, bụi
bặm…cần được loại ra khỏi khối sữa bằng cách lọc.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét