Trang
blog này được lập bởi chủ Quán BỌT TRÁI
CÂY với mục đích chia sẻ tài liệu về công nghệ thực phẩm
cho các bạn cùng khoa cũng như các anh, chị, em và các bạn yêu thích, quan tâm
hay tìm kiếm tài liệu về công nghệ thực phẩm.
NẾU
THẤY TÀI LIỆU CÓ ÍCH, MỜI CÁC
BẠN ĐẾN VÀ ỦNG HỘ QUÁN BỌT TRÁI CÂY ĐỂ CHÚNG TÔI CÓ THÊM KINH PHÍ DUY TRÌ HOẠT
ĐỘNG ĐĂNG TẢI TÀI LIỆU CHO MỌI NGƯỜI!

XIN CHÂN THÀNH CẢM
ƠN!
Quán Bọt Trái
Cây
Địa chỉ: 88/955E Lê Đức Thọ,
P.6, Gò Vấp,
TP.HCM
Hotline:
0935.355.169
Mail:
bottraicay@gmail.com
Facebook: http://www.facebook.com/BotTraiCay
Web: http://bottraicay.blogspot.com/
Xem bản đồ đường đi clik vào
đây
Chương 2: QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT SỮA BỘT
2.1. NGUYÊN LIỆU TRONG SẢN SUẤT SỮA
BỘT
Nguyên liệu để sản xuất sữa bột là sữa tươi
nguyên cream hoặc sữa gầy. Sữa nguyên là sản phẩm được chế biến từ sữa tươi
không hiệu chỉnh hàm lượng chất béo . Sữa gầy là sản phẩm được chế biến từ sữa
tươi được tách bớt một phần chất béo. Để sản phẩm có chất lượng ổn định, các yêu
cầu về chỉ tiêu hoá lý, vi sinh và cảm quan cho nguyên liệu cũng khắt khe như
đối với nhóm chỉ tiêu vi sinh, tổng số tế bào trong 1l sữa trước khi cô đặc và
sấy không vượt quá 3000-5000. Để đạt được yêu cầu này sữa nguyên liệu phải qua
theo một quy trình riêng nhằm làm giảm tổng số tế bào sinh dưỡng và bào tử có
trong sữa. mỗi cơ sở sản xuất sẽ tự thiết lập yêu càu chỉ tiêu chất lượng sữa
nguyên liệu cho quy trình chế biến đang được áp dụng cho nhà
máy.
Ngoài
nguyên liệu chính là sữa tươi hoặc sữa gầy, người ta còn áp dụng một số phụ
gia trong sản xuất sữa bột như chất ổn định (polyphosphate, orthophosphate của
Na, K, Ca) chất tạo nhũ lecithine, chất chống oxy hoá. Muối phosphate có chức
năng kàm ổn định cấu trúc hạt sữa, chống oxy hoá và cải thiện độ hoà tan của sản
phẩm.
Chế
biến sữa bột rất có lợi về kinh tế bởi chất khô tăng cao tiết kiệm bao bì và vận
chuyển dễ dàng. Các dạng sữa bột hiện có: sữa bột nguyên kem, sữa bột tan nhanh,
sữa bột gầy.

2.2.1. Chuẩn hoá:
Quá
trình chuẩn hoá sữa nhằm hiệu chỉnh hàm lượng chất béo trong nguyên liệu và
được thực hiện trên dây chuyền tự động bao gồm máy ly tâm, bộ phận phối trộn,
các dụng cụ đo (lưu lượng kế, tỷ trọng kế …) bơm và thùng chứa. Sữa bột nguyên
cream có hàm lượng chất béo 26-33%, sữa bột gầy có hàm lượng chất béo
1%.
2.2.2. Thanh
trùng:
Nhằm
làm giảm số VSV trong sữa đến mức thấp nhất, đồng thời vô hoạt các enzym, đặc
biệt là nhóm enzym bền nhiệt lipase, làm thay đổi tính chất của prôtein. Thanh
trùng thường được thực hiện ở 80-85 oC trong vài giây.
Quá trình thanh trùng sữa được thực hiện trên thiết bị trao đổi nhiệt dạng bảng
mỏng.
Để
tổng số vi khuẩn đạt được theo yêu cầu các nhà máy còn sở dụng thêm phương pháp
ly tâm hoặc vi lọc để tách bớt các VSV ra khỏi sữa. Quá trình ly tâm được thực
hiện ở nhiệt độ 55-60 oC. Sau ly tâm tổng số vi khuẩn bị
loại có khi lên đến 99% so với tổng số vi khuẩn ban đầu có trong sữa. Số lượng
các vi khuẩn sinh bào tử chịu nhiệt cũng giảm đi đáng kể như giống Clotridium.
Tuy nhiên thanh trùng không thể loại bỏ hết các vi khuẩn nhóm
này.
Quá trình vi lọc được thực hiện trên thiết bị
membrane(0,2µ). Khi đó việc tách tế bào vi khuẩn và bào tử
của nó giảm đi rất nhiều .Quá trình vi lọc chỉ thực hiện trên nguyên liệu sữa
gầy vì chất béo trong sữa dễ bị hấp phụ trên membrane, gây tắc nghẽn màng lọc.
Phần chất béo sẽ được tiệt trùng riêng sau đó làm nguội và phối trộn với sữa gầy
đã qua vi lọc. Phương pháp này cho phép thu nhận sữa nguyên liệu đạt các chỉ
tiêu VSV rất tốt.
Thanh
trùng còn nhằm mục đích tạo nhiệt độ cần thiết để khi đưa vào nồi cô đặc sữa có
thể bốc hơi ngay, tránh sự chênh lệch nhiệt độ cao trong nồi chân không. Sau
thanh trùng cần làm nguội tới nhiệt độ cô đặc 60 -
70 oC. Khi đã làm nguội đến nhiệt độ này ngưòi ta có thể
đưa vào thùng trung gian rồi từ đó cho vào nồi đặc hoặc có thể cho trực tiếp vào
nồi cô đặc.
Quá
trình thanh trùng thực phẩm thường bao gồm ba giai đoạn:
- Gia nhiệt tăng nhiệt độ thực phẩm lên đến
nhiệt độ thanh trùng
- Giữ thực phẩm ở nhiệt độ cần thanh trùng trong
một khoảng thời gian xác định.
- Làm nguội thực phẩm về giá trị nhiệt độ thích
hợp.
¬ Các yếu tố ảnh hưởng đến quá
trình thanh trùng:
- Hệ VSV trong thực
phẩm:
Nếu
số lượng VSV càng lớn, để đạt được mức độ vô trùng theo yêu cầu thì chế độ xử lý
nhiệt phải nghiêm ngặt với nhiệt độ cao hơn và thời gian dài
hơn.
- Thành phần hoá học trong thực
phẩm.
- Các tính chất vật lý của thực
phẩm.
-
Phương pháp và thiết bị thanh trùng.
2.2.3. Cô
đặc:
Cô đặc nhằm tách bớt một lượng nước
ra khỏi sữa để tiết kiệm chi phí năng lượng cho quá trình sấy sữa tiếp theo.
Người ta dùng cô đặc chân không. Cô đặc ở áp suất thường thì sản phẩm luôn
luôn tiếp xúc với không khí nên luôn luôn bị nhiễm bẩn, các sinh tố và chất béo
bị phân huỷ, sản phẩm bị biến tính (đặc sệt, có màu vàng sẫm ). Cô đặc ở áp suất
chân không thì thường khắc phục được những nhược điểm trên vì thời gian cô đặc
ngắn và nhiệt độ thấp nên tránh được các thay đổi sâu sắc về cấu trúc của sữa
vốn xảy ra mãnh liệt ở 100 oC, đặc biệt là tránh được sự
biến đổi của đường lactoza do đó sản phẩm có chất lượng và màu sắc
tốt.
Nhiệt
độ sữa trong quá trình cô đặc không vượt quá 76oC. Thiết bị cô đặc
phổ biến nhất là thiết bị cô đặc nhiều cấp dạng màng rơi. Số cấp sử dụng thường
từ 2-7 cấp, thường gặp nhất là 4 cấp, sau cô đặc hàm lượng chất khô trong sữa là
45-55%.
Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình cô đặc bằng
nhiệt:
¬ Các yếu tố ảnh hưởng đến tốc độ
truyền nhiệt:
- Sự chênh lệch nhiệt độ giữa hơi gia nhiệt và nhiệt độ sôi của sữa: Nếu độ
chênh lệch này càng lớn thì tốc độ truyền nhiệt sẽ càng lớn, để làm tăng mức
chênh lệch trên thì ta giảm nhiệt độ sôi của sữa bằng phương pháp cô đặc trong
môi trường chân không.
-
Hiện tượng cặn bám trên bề mặt trao đổi nhiệt
Trong
quá trình bốc hơi, một số cấu tử trong sữa có thể bị bám dính trên bề mặt truyền
nhiệt của thiết bị. Dưới tác dụng của nhiệt độ cao, một số phân tử protein sẽ bị
biến tính; các hợp chất bị bám dính nói trên sẽ tương tác với nhau hoặc bị phân
giải. Kết quả là chúng tạo nên một lớp cháy khét và làm giảm tốc độ truyền
nhiệt
-
Hiện tượng màng biên:
Lớp
sữa tiếp xúc với bề mặt truyền nhiệt lớp màng biên trong thiết bị bốc hơi thường
tạo ra một trở lực lớn trong quá trình truyền nhiệt.
-
Độ nhớt của nguyên liệu: nếu cao sẽ làm giảm chỉ số Râynol và tốc độ tuần hoàn
của nguyên liệu trong thiết bị, do đó hệ số truyền nhiệt giảm.
¬ Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu
quả kinh tế của quá trình cô đặc:
-
Hiện tượng tạo bọt: Dưới tác dụng của nhiệt độ cao và do sự xuất hiện các bong
bóng hơi, một số cấu tử trong sữa như protein có khả năng tạo bọt lớp bọt trong
thiết bị cô đặc sẽ làm giảm tốc độ thoát hơi thứ ra khỏi sản
phẩm.
-
Hiện tượng tổn thất chất khô do bị lôi cuốn bởi hơi thứ: Hơi thứ thoát ra sẽ
cuốn theo một số cấu tử ở dạng sương mù nên làm tổn thất chất khô. Người ta sử
dụng thiết bị cô đặc nhiều cấp để hạn chế hiện tượng này.
2.2.4. Đồng
hoá.
Do
hàm lượng chất béo trong sữa sau quá trình cô đặc khá cao nên nhà sản xuất
thực hiện quá trình đồng hoá để giảm kích thước hạt béo và phân bố đều chúng
trong sữa. Trong công nghệ chế biến sữa, quá trình đồng hoá được sử dụng với mục
đích ổn định hệ nhủ tương, chống lại sự tách pha dưới tác dụng của trọng lực nên
còn gọi là quá trình nhũ hoá.
Nhũ
tương là một hệ gồm hai chất lỏng không hoà tan nên được trộn lẫn với nhau. Khi
đó một chất lỏng sẽ tồn tại dưới dạng hạt (gọi là pha không liên tục, pha phân
tán, pha nội) trong lòng của chất lỏng còn lại (pha không phân tán). Ở đây chỉ
xếp hệ nhũ tương đơn giản, dầu trong nước hoặc nước trong dầu.
Trong
quá trình đồng hoá để đạt được hiệu quả cao ta thường sử dụng chất nhũ hoá. Chất
nhủ hoá có hai chức năng: Làm giảm sức căng bề mặt giữa hai pha quan hệ nhủ
tương và hình thành nên một màng bảo vệ bao bọc xung quanh các hạt của pha phân
tán, làm cho chúng không thể kết hợp với nhau để tạo nên các hạt phân tán mới có
thể tích lớn hơn. Chất nhũ hoá được sử dụng trong chế biến sữa là phải không độc
hại, không màu, không mùi, không vị, ít biến đổi trong quá trình chế biến và bảo
quản sữa.
Kỹ thuật đồng hoá hệ nhũ tương bao gồm các
phương pháp: Làm vỡ, làm giảm kích thước những hạt thuộc pha phân tán và phân
đều chúng trong pha liên tục.
¬ Đồng hoá bằng phương pháp khuấy
trộn:
Sử
các cánh khuấy để đồng hoá hệ nhủ tương quả quá trình đồng hoá này không cao,
người ta chỉ áp dụng nhằm mục đích chuẩn bị sơ bộ hệ nhũ tương trước khi chuyển
qua giai đoạn đồng hoá bằng phương pháp sử dụng áp lực cao.
¬ Đồng hoá bằng phương pháp sử
dụng áp lực cao:
Trong phương pháp này các hạt của pha phân tán
sẽ bị phá vỡ và giảm kích thước khi ta bơm hệ nhũ tương đi qua một khe hẹp với
tốc độ cao. Kích thước của khe hẹp có thể dao động trong khoảng 15÷300
m và tốc độ dòng của hệ nhũ
tương được đẩy đến khe hẹp có thể lên đến tới 50÷200 m/s. Sử dụng thiết bị đồng hoá hai cấp và
áp lực đồng hoá cho mỗi cấp là 200 bar và 50 bar.

Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình đồng
hoá
- Tỷ
lệ phần trăm giữa thể tích pha phân tán và tổng thể tích hệ nhũ tương. Nếu tỷ lệ
này nhỏ thì quá trình đồng hoá sẽ được thực hiện dể dàng và hệ nhũ tương có độ
bền cao. Ngược lại thì thường khó thực hiện bằng các phương pháp thông thường.
- Nhiệt độ: Dựa vào thành phần hoá học của hệ
nhũ tương mà ta chọn nhiệt độ thích hợp cho quá trình đồng hoá. Trong công
nghiệp chế biến sữa nhiệt độ đồng hoá thường dao động từ
55 ÷ 80 oC.
- Áp
suất: Áp suất đồng hoá càng lớn thì thực hiện đồng hoá càng dễ. Trong công
nghiệp chế biến sữa áp suất đồng hoá thường dao động từ 100 ÷ 250
bar.
-
Chất nhũ hoá: phải lựa chọn chất nhũ hoá thích hợp cho từng loại sản phẩm. Những
chất nhũ hoá thường dùng trong công nghiệp chế biến sữa là lecithin, glycerin
ester…
2.2.5. Sấy sữa:
Sấy là quá trình làm bốc hơi nước ra khỏi vật
liêụ dưới tác dụng của nhiệt. Nước tách ra khỏi vật liệu nhờ sự khuếch tán do:
chênh lệch độ ẩm ở bề mặt và bên trong vật liệu; chênh lệch áp suất hơi riêng
phần của nước tại bề mặt vật liệu và môi trường bên trong. Thời gian sấy nhanh,
nhiệt của vật liệu sấy thấp, sản phẩm nhận được ở dạng bột nhỏ, không cần phải
nghiền lại và có độ hòa tan lớn. Nhiệt của vật liệu trong suốt chu kỳ sấy không
vượt quá nồng độ của ẩm bốc hơi (60°C ¸ 70°C)
Sản
phẩm chế biến từ sữa đã cô đặc đến độ khô 35 - 40%, đem sấy khô, nghiền thành
bột, sàng, rây được sữa ở dạng bột có độ khô 90 - 96%, độ ẩm 4 - 10%. Tùy thuộc
vào thiết bị sấy có được sản phẩm SB có chất lượng khác nhau. Để thu nhận sữa
bột người ta có thể sử dụng các phương pháp sấy khác nhau như sấy thăng hoa,
sấy trục, nhưng hiện nay sấy phun được sử dụng nhiều hơn cả
a.Sấy thăng hoa: (sấy chân
không)
Bao
gồm nhiều giai đoạn: làm lạnh đông sữa đến xuất hiện những tinh thể đá , tiếp
theo là tạo môi trường chân không và nâng dần nhiệt độ để nước từ trạng thái rắn
chuyển trực tiếp sang trạng thái hơi. Sấy thăng hoa cho phép sữa bột giữ lại các
chất dinh dưỡng và mùi vị của sữa với độ tổn thất thấp nhất. Tuy nhiên chi phí
và thiết bị cho sấy thăng hoa rất đắt (tiêu thụ năng lượng lớn ) nên đến nay
chưa được ứng dụng trong công nghệp sản xuất sữa bột, chỉ ứng dụng trong nghành
sản xuất sữa bột có chất lượng cao. Sấy thăng hoa cho sản phẩm có độ khô 96 -
97%, độ hoà tan đạt 98 - 99%.
b. Sấy trục:(sấy màng)
Sấy
trục trước đây được sử dụng phổ biến trong sản xuất sữa bột, số trục sấy có thể
là một hoặc hai trục (thường được sử dụng nhất là hai trục). Nhược điểm của
phương pháp này là làm thay đổi rõ rệt các thành phần của sữa: sữa có màu sắc
không đẹp, độ hoà tan thấp, chất béo tự do chiếm một tỉ lệ khá cao nên dễ bị oxy
hoá trong quá trình bảo quản.
Sấy
màng thì được SB có độ khô 85 - 90%, sấy màng đạt 85 - 88%.
c. Phương pháp sấy phun:
Sữa
nguyên liệu được đưa vào vòi phun trở thành những hạt nhỏ li ti trong buồng sấy
đồng thời không khí nóng cũng được đưa vào. Khi không khí bị đun nóng, thể tích
của nó tăng lên còn mức độ bảo hoà giảm, khả năng hấp thụ nước tăng lên, không
khí nóng ở đây đóng vai trò nguồn năng lượng và chất hấp phụ nước. Thời gian
tiếp xúc giữa sữa và không khí nóng rất ngắn nên nhiệt độ sữa tăng không quá
cao. Do đó phương pháp sấy phun khắc phục được những nhược điểm của sấy trục là
hạn chế được sự tổn thất các chất dinh dưỡng và các cấu tử hương trong sữa bột.
Sự vô hoạt bất thuận nghịch các protein trong sữa trong quá trình sấy phun là
không đáng kể nên sữa bột thành phẩm có độ hoà tan cao. Nhiệt độ không khí vào
tháp sấy không quá 180 oC. . Sấy phun cho sản phẩm có độ
khô 96 - 97%, sấy phun đạt 96 - 98%.
Trong
sản xuất công nghiệp, thường sử dụng hệ thống sấy phun hai giai đoạn hoặc hệ
thống sấy phun có sử dụng băng tải. Hệ thống sấy phun có sử dụng băng tải là phổ
biến nhất hiện nay. Khi đó quá trình sấy sữa sẽ gồm ba giai
đoạn:
Giai đoạn
1:
75%
lượng không khí nóng với nhiệt độ 270 – 280 oC sẽ được
đưa vào buồng sấy chính tại các vị trí xung quanh vòi phun sữa nguyên liệu, 25%
lượng không khí nóng còn lại với nhiệt độ 100-150 oCsẽ
đi qua lưới phân bố và toả đều xuống bên dưới từ trần buồng sấy. Các hạt sữa sẽ
hình thành trong buồng sấy với độ ẩm dao động từ 6-14% và rơi xuống băng tải đặt
bên dưới. Độ ẩm của không khí trong buồng sấy sẽ ảnh hưởng đến cấu trúc và kích
thước hạt sữa thành phẩm. Nếu độ ẩm quá thấp hạt sữa có kích rất nhỏ và trở nên
rời rạc do chúng không kết dính lại với nhau . Nếu độ ẩm quá cao hiện tượng kết
dính xảy ra mạnh làm tăng kích thước của chúng. Kết quả sữa bột không đạt độ mịn
đồng nhất về kích thước và cấu trúc của hạt.
Giai đoạn 2: Băng tải vận chuyển sữa từ buồng
sấy chính qua buồng sấy phụ, với vận tốc chuyển động của băng tải là 1m/ph. Khi
đó dòng tác nhân sấy trên đường thoát ra khỏi thiết bị ở cửa đáy sẽ xuyen qua
lớp sữa bột trên băng tải và tách thêm một lượng ẩm nữa trong các hạt sữa. độ ẩm
sữa bột giảm xuống còn 3-10%.
Giai đoạn 3: Tại buồng sấy phụ người ta đưa
không khí nóng vào với nhiệt độ 110-140 oC. Dòng tác
nhân sấy này sẽ xuyên qua lớp sữa bột trên băng tải rồi thoát ra ngoài dưới đáy
buồng. Nhiệt độ khí thoát là
74-76 oC.
Sau
cùng băng tải sẽ đưa sữa bột vào buồng làm nguội. người ta sử dụng tác nhân làm
nguội đã qua tách ẩm có nhiệt độ 15-20 oC. Dòng tác nhân
làm nguội cung sẽ thổi xuyên qua lớp sữa bột trên băng tải rồi theo cửa thoát
bên dưới để ra ngoài. Có 5% lượng sữa bột thoát ra theo các dòng khí thải được
thu hồi nhờ hệ thống xyclon. Người ta cũng bố trí hệ thống thu hồi nhiệt từ khí
thải để tiết kiệm năng lượng cho quá trình sấy.
Trong
công nghiệp sản xuất sấy phun hay sử dụng sấy phun là do sấy phun có nhiều ưu
điểm hơn các quá trình sấy khác:
-
Thời gian tiếp xúc giữa các hạt lỏng và tác nhân sấy trong thiết bị rất ngắn nên
sự tổn thất các hợp chất dinh dưỡng mẫn cảm với nhiệt độ là không đáng
kể.
- Sản
phẩm sấy phun thu được là những hạt có hình dạng và kích thước tương đối đồng
nhất.
-
Thiết bị sấy phun thường có năng suất cao và làm việc liên tục.
¬ Các yếu tố ảnh hưởng đến quá
trình sấy phun
- Nồng độ chất khô của nguyên liệu: trong công
nghiệp sản xuất sữa bột nồng độ chất khô vào buồng sấy khoảng 45÷52%. Nếu cao quá thì ảnh hưởng đến quá trình
tạo sương mù trong buồng sấy.
-
Nhiệt độ tác nhân sấy: Nhiệt độ tác nhân sấy ảnh hưởng đến độ ẩm của sản phẩm
sau khi sấy phun . Nếu độ ẩm tăng quá cao sẽ gây nên phân huỷ một số cấu tử
trong nguyên liệu và làm tăng mức tiêu hao năng lượng cho toàn bộ quá
trình.
-
Kích thước, số lượng và quỹ đạo chuyển động của các hạt nguyên liệu trong buồng
sấy.
2.2.6. Đóng gói và hoàn thiện sản phẩm
:
Sữa
bột sau khi sấy phun sẽ được đưa qua hệ thống rây rồi vào thiết bị đóng gói.
Thông thường người ta sử dụng bao bì bằng kim loại hoặc bao bì giấy để đựng sản
phẩm.Yêu cầu chung về bao bì là phải hạn chế sự tiếp xúc của ánh sáng, không khí
và độ ẩm từ môi trường xung quanh đến sữa bột. Người ta thường đóng gói trong
điều kiện chân không hoặc thổi hỗn hợp 90% nitơ, 10% hydro vào hộp trước khi
ghép nắp nhằm kéo dài thời gian bảo quản của sản phẩm.
Sữa
bột có khả năng hút ẩm rất cao do đó khi bảo quản trong bao bì kín, sữa bột sẽ
hút nước đến độ ẩm cân bằng, tạo thành các cục vón làm giảm độ hoà tan của sữa.
Bảo quản lau còn làm cho sữa bị biến màu, chuyển từ vàng nhạt sang ngả nâu, có
mùi khét và giảm độ hoà tan rõ rệt.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét