Trang
blog này được lập bởi chủ Quán BỌT TRÁI
CÂY với mục đích chia sẻ tài liệu về công nghệ thực phẩm
cho các bạn cùng khoa cũng như các anh, chị, em và các bạn yêu thích, quan tâm
hay tìm kiếm tài liệu về công nghệ thực phẩm.
NẾU
THẤY TÀI LIỆU CÓ ÍCH, MỜI CÁC
BẠN ĐẾN VÀ ỦNG HỘ QUÁN BỌT TRÁI CÂY ĐỂ CHÚNG TÔI CÓ THÊM KINH PHÍ DUY TRÌ HOẠT
ĐỘNG ĐĂNG TẢI TÀI LIỆU CHO MỌI NGƯỜI!

XIN CHÂN THÀNH CẢM
ƠN!
Quán Bọt Trái
Cây
Địa chỉ: 88/955E Lê Đức Thọ,
P.6, Gò Vấp,
TP.HCM
Hotline:
0935.355.169
Mail: bottraicay@gmail.com
Web: http://bottraicay.blogspot.com/
Chương 1: GIỚI
THIỆU
I. Sơ lược về bánh
tráng
v Mở
đầu:
Nói đến tính sáng tạo trong
nghệ thuật ẩm thực Việt nam, không thể không kể đến món bánh tráng. Chỉ với các
nguyên liệu quen thuộc của địa phương nhưng khi kết hợp và cuốn trong chiếc bánh
tráng sẽ tạo ra một món ăn có hương vị tổng hợp rất khoái khẩu, đó là sản phẩm
bánh
tráng.
Bánh
tráng, hay
còn gọi là bánh
đa, là
một dạng bánh sử dụng nguyên liệu chính là bột tráng
mỏng, phơi
khô, khi ăn có thể nướng giòn hoặc nhúng qua nước.
Bánh tráng là thực phẩm để lâu không ít sợ hư, hiện nay bánh tráng hầu như có mặt khắp nơi trên mọi miền đất nước ta, nhưng nhiều nhất vẫn là Bình Định và một số nơi khác ở miền Trung, miền Nam ,
nhất là vùng Đồng bằng Nam bộ. Trong các bữa tiệc sang
trọng hay bình dân, bánh tráng đều được dùng để cuốn thức ăn, gói bì cuốn hoặc
chả giò… bánh tráng nướng giòn tan ăn rất vui
miệng
Kỹ thuật sản xuất bánh tráng khá đơn giản: đầu tiên người ta sẽ ngâm
nguyên liệu, sau đó nghiền thành dạng bột, tùy vào từng loại sản phẩm mà quá
trình nghiền và chế biến khác nhau, sau đó bột được tạo hình và được hấp trên
chảo, trên những tấm kim loại nóng hoặc hấp trong thiết bị gia nhiệt hơi
nước.
Tùy vào phương pháp sản xuất, nguyên liệu đầu vào mà ta có những
loại bánh tráng khác
nhau.
Nói chung hầu hết các quy trình sản xuất bánh tráng đều tương đối
giống nhau, chỉ khác nhau ở một số giai đoạn nhất định, quyết định cấu trúc và
hình dạng sản
phẩm
v Sản
phẩm chế biến từ bánh
tráng
Thịt
luộc cuốn bánh tráng:
Đơn giản mà ngon hơn cả, xếp
vị trí đầu bảng trong danh mục cuốn là thịt đùi heo luộc chín, có nạc có mỡ mới
ngon. Quá trình luộc nên để lửa riu riu và mở hé nắp. Lấy chiếc đũa chọc qua
được miếng thịt là đã chín. Vớt thịt ra, dội sơ nước lạnh, thái miếng thật mỏng.
Thịt luộc cuốn bánh tráng, chấm mắm nêm, thật khó có gì ngon hơn. Để an toàn vệ
sinh thực phẩm, trước khi pha chế mắm nêm, nên cho mắm vào chén chưng cách thủy.
Tuy mùi vị có bị giảm đôi chút, nhưng yên tâm. Pha chế mắm nêm cũng là khâu
quyết định. Ớt, tỏi, thơm, giã nhuyễn, pha thêm đường tùy theo khẩu vị, vắt ít
chanh.
Gỏi
cuốn:
Món cuốn sẵn với cái bánh
tráng lớn, cắt làm đôi. Chỉ có hai thứ chủ lực là tôm và thịt luộc xắt mỏng. Gỏi
cuốn ngon và khéo ở khâu sắp nhưn và rau. Trải miếng bánh tráng, phần trên miếng
bánh tráng đặt lá xà lách, ít rau thơm, vài cọng hẹ dài, sao cho ló ra khỏi
miếng bánh tráng, sau đó đến dưa leo, chuối chát, khế… Sắp thêm lọn bún, cuối
cùng trải mấy miếng thịt heo. Phần dưới miếng bánh tráng sắp hàng dài ít con tôm
(hấp hay luộc). Tém một đầu bánh tráng rồi cuộn sao cho đến gần cuối miếng bánh
tráng, tôm sẽ nằm ở lớp ngoài cùng tạo màu đỏ hấp dẫn. Gỏi cuốn ăn với nước mắm
ớt
tỏi.
Nem nướng cuốn bánh
tráng:
Món này chế biến hơi cầu kỳ
và công phu nếu phải tự tay giã thịt. Đơn giản thì mua giò (lụa) sống về trữ
trong tủ lạnh khi nào thích mang ra nướng. Vê, ém dẹp từng cây thịt nhỏ rồi bỏ
vào lò nướng. Để tự chế biến, mua thịt nạc vai rồi nhờ hàng thịt xay qua hai lần
cho nhuyễn. Nêm nếm gia vị và cũng nướng như cách
trên.
Nem nướng ăn thú vị quyết
định ở nước chấm tương, cách làm tương tuy đơn giản nhưng để cho ngon cũng khá
tốn công. Cốm nếp mua về giã sơ (hoặc không giã) ngâm chút nước cho nở đều. Gan
heo, thịt nạc bằm nhuyễn với ớt, tỏi xào chín. Nước mắm pha với đường liều lượng
vừa ăn cho vào, cuối cùng cho cốm nếp vào đảo đều, nêm ít bột ngọt vừa miệng. Để
tạo màu có thể cho thêm ít màu đỏ của ớt màu (hột điều) đã phi
dầu.
Thịt thưng, kho tàu, ram...
cuốn bánh tráng, rau sống đều lạ miệng. Đơn giản và nhanh gọn nhất là măng cuốn
bánh tráng. Tết đến nhà nào ít nhiều cũng có chút măng. Bánh tráng có sẵn, rau
sống mua về rửa sạch cho vào túi nylon cất giữ trong tủ lạnh, chỉ cần bật bếp
hâm lại nồi măng, múc thêm ít củ kiệu chua là chủ khách có thể rôm rả một bữa
ăn.
Ngán thịt mỡ, đạm bạc hơn,
xào đậu cô ve cuốn bánh tráng, chấm mắm ớt tỏi cũng ngon tuyệt. Hay giản tiện
nữa, chiên vài cái trứng vịt rồi cắt sợi cuốn bánh tráng rau sống chấm mắm ớt
tỏi cũng ngon mà no lòng. Chu đáo
hơn, mua ít cá dành trong tủ lạnh hấp cuốn bánh tráng, rau sống dùng mấy ngày
xuân cho đỡ
ngán.
Tuy là món quen thuộc của
người Việt, nhưng vẫn có nhiều người trẻ không biết... cuốn. Cuốn, vén khéo hầu
như chỉ có ở các thế hệ từ 7X trở về trước. Khắc phục việc này, ở chợ, siêu thị
hiện có bán các loại bánh tráng tròn nhỏ, mỗi cái bánh một cuốn, khó rách và dễ
làm. Bạn trẻ, nào ta cùng... cuốn để cảm được cái thú vị của những món ăn nhàn
tản
này.
v Phân loại bánh
tráng:
üTheo hình dạng: rất phong phú và đa dạng theo
kiểu mẫu nhưng đa số bánh tráng được làm ra có hình tròn hoặc hình vuông. Đây là
2 kiểu hình rất thường được tạo hình vì dễ tạo, dễ xếp chồng chúng lên nhau
trong quá trình vận
chuyển.
ü Dựa vào nguồn nguyên
liệu:
· Bánh tráng từ gạo
· Bánh tráng từ bắp
· Bánh tráng từ khoai
mì
· Bánh tráng từ bột mì
ü Dựa vào gia vị: bánh tráng thường làm từ bột gạo và được gia vị vào đó một ít muối,
đường, bột ngọt, tiêu, hành, tỏi, chính vì vậy bánh tráng mang mùi vị hơi mặn.
Tùy thuộc vào từng loại bánh tráng mà người ta có thể phối trộn một số nguyên
liệu phụ tạo nên sản phẩm đặc trưng cho vùng miền. Ví dụ như bánh tráng dừa thì
có vị béo, thơm của dừa khi nướng lên. Bánh tráng sữa thì cò vị béo, ngọt , thơm
của sữa. Bánh tráng tây ninh thị có vị hơi mặn của muối và vị ngọt của tôm khô
.
· Bánh tráng ngọt
· Bánh tráng mặn
· Bánh tráng
lạt
v Dựa vào độ dày mỏng của sản
phẩm:
· Bánh tráng
mỏng
· Bánh tráng
dày
· Giấy tinh
bột
üTheo vùng miền: tùy theo vùng miền có khẩu vị, thói quen sử
dụng , theo phong tục truyền thống sử dụng bánh tráng riêng. Thường thì phân
loại theo 3 miền của đất nước Bắc, Trung , Nam .
Các loại bánh tráng cốt dừa,
bánh tráng mè, bánh tráng sữa, bánh tráng nem… được sản xuất ở các tỉnh miền
trung và miền Nam nước
ta. Ở Bình Định có bánh tráng nước dừa Tam Quan, còn
miền Nam thì
có “Bánh tráng Mỹ Lồng- Bánh phồng Sơn Đốc”... Bánh tráng thực sự là một món ăn
hấp dẫn mọi thành phần trong xã hội. Chính vì thế, mà các Việt kiều xa quê hương
khi trở về vào dịp lễ tết thường muốn ăn chiếc bánh tráng quê hương đậm đà bản
sắc dân
tộc.
II. Tình hình nghiên cứu và sản xuất bánh tráng hiện nay ở nước ta
v Đầu tiên, bánh tráng xuất hiện theo quy mô
gia đình.
Bánh tráng là món quen thuộc
của cả 3 miền bắc, trung, nam nên ở đâu cũng có những cơ sở sản xuất, có nhiều
nơi sản xuất với kĩ thuật riêng tạo ra loại bánh tráng mang hương vị đặc trưng
cho vùng miền mà chỉ ở đó mới có mà
thôi.
v Một số vùng sản xuấtbánh tráng tiêu biểu nổi
tiếng
Ø Nhắc đến Tây Ninh người ta thường nghĩ ngay
đến bánh tráng Trảng Bàng - loại nguyên liệu làm nên món cuốn tuyệt vời của vùng
đất Đông Nam Bộ này. Đến xứ Trảng Bàng hỏi người dân tráng bánh không ai biết
nghề làm bánh tráng ra đời từ lúc nào mà nổi tiếng đến vậy, họ chỉ biết
làm nơi đây có khá nhiều lò bánh chuyên nghiệp
chuyên sản xuất bánh tráng phơi sương cung cấp cho thị trường các tỉnh lân cận
mà nhiều nhất là thành phố Hồ Chí Minh. Người làm nghề ở đây nói bánh tráng ra
lúc đâu chỉ là loại bánh tráng nem rất mỏng. Sau này bà con mới nghĩ ra loại
bánh phơi sương làm công phu hơn. Bánh này được tráng hai lớp mỏng chồng lên
nhau, khi lớp bột thứ nhất vừa chín thì tráng tiếp lớp thứ hai. Sau khi phơi khô
thì nướng lên bằng lửa đậu phộng cho bánh chín phồng, giòn mà vẫn trắng. Buổi
tối thường là lúc 9, 10 giờ đêm khi sương đã xuống nhiều, người ta sẽ mang bánh
ra hứng sương khoảng 5 phút cho bánh dẻo lại.cha truyền con nối đời này đến đời
kia thấm thoát cũng cả trăm
năm
ØLàng bánh tráng nem Cù Lao Mây ở ấp Tân Thạnh
Xã lục Sỹ Thành huyện Trà Ôn, làng nghề này đã hình thành từ năm 1960. Qua 49
năm tồn tại và phát triển đến nay. Làng nghề Bánh Tráng nem Cù Lao Mây ấp Tân
Thạnh đã duy trì sự ổn định của làng nghề.Hàng năm làng nghề bánh tráng nem cung cấp cho
thị trường khoảng 385 tấn sản phẩm bánh tráng. Hiện nay, toàn xã có 71 hộ sản
xuất bánh tráng, tập trung nhiều nhất ở ấp Tân Thạnh. Từ nguồn lực này, mỗi năm
làng nghề bánh tráng nem Cù Lao Mây cung cấp cho thị trường trong và ngoài nước
khoảng 385 tấn bánh ,và mang lại giá trị sản xuất công nghiệp 7.315 triệu đồng
/năm .Đây cũng là nơi sản xuất các mặt hàng tiểu thủ công nghiệp khác, đa dạng
về nguyên liệu và sản phẩm.Sản phẩm bánh tráng nem Cù Lao Mây đã được các hộ
sản xuất chú trọng hơn về chất lượng, và mẫu mã bao bì. Để phân biệt với các
bánh tráng khác, làng nghề bánh tráng nem Cù Lao Mây đã xây dựng và đăng ký nhãn
hiệu cho làng nghề với tên “Làng nghề Bánh tráng Cù Lao
Mây.”
Ø Bình Định nổi tiếng với bánh tráng dừa, Tây
Ninh có bánh tráng phơi sương, Bến Tre có bánh tráng sữa..., và bánh tráng cuốn
thì không đâu bằng bánh tráng Đại Lộc (Quảng Nam).Nghề làm bánh tráng ở Đại Lộc
có từ lâu đời và đã có thương hiệu trên thị trường. Người Đại Lộc thường lấy
bánh tráng làm quà biếu cho những người bạn xa. Trước đây, hầu như nhà nào ở Đại
Lộc cũng có dụng cụ tráng bánh và có thể tự tráng được. Giờ đây, đồ nghề vẫn còn
đó nhưng nhiều người không tự tráng nữa mà chỉ những người thợ chuyên nghiệp làm
để
bán.
Người Đại Lộc ăn bánh tráng
quanh năm, nhà nào cũng có bánh tráng để sẵn trong nhà, ăn điểm tâm, ăn nữa
buổi, ăn bữa chính, ăn mọi lúc mọi
nơi.
Ø Bánh tráng là một món ăn khá phổ biến của
người Việt Nam từ
xưa đến nay. Ở Phú Yên, món bánh tráng trở nên gần gũi với tất cả mọi người hơn
bao giờ hết. Nó gắn với đời sống, đi vào văn hóa ẩm thực, không thể thiếu trong
những lần nhà có giỗ chạp, đám tiệc của con người nơi đây. Đặc biệt là trong
ngày Tết.
Phú Yên có nhiều làng bánh
tráng nổi tiếng. Từ những ngày đầu tháng chạp người làng bánh đã bắt đầu rộn
rịp chuẩn bị. Các công đoạn làm bánh đến thời gian này như gạo bột, chất đốt…
gần như đã chuẩn bị xong. Anh Trương Công Vinh, một người làm bánh tráng nổi
tiếng ở Hòa Đa tâm sự: “Tất cả mọi khâu đã chuẩn bị xong, chỉ cầu mong trời nắng
tốt là như ý”. Có lẽ người làm bánh đều có bí quyết gia truyền cộng với những
kinh nghiệm riêng mà sản phẩm của họ làm ra, đáp ứng với nhu cầu của người tiêu
dùng. Chính vì thế, không ít người đã chọn nghề làm bánh tráng để mưu sinh. Ở
thôn Hòa Đa huyện Tuy An có khoảng đến 20% gia đình sinh sống bằng nghề này.
Những ngày giáp Tết, những làng bánh nổi tiếng trở nên đông vui, tấp nập. Từ các
làng quê, mỗi sáng bánh tráng theo những chuyến xe ra đi khắp mọi nơi trong và
ngoài
tỉnh.
Ngoài những nơi sản xuất
trên mỗi vùng miền còn có rất nhiều cơ sở nhỏ lẻ khác sản xuất bánh tráng đi
cùng với những thương hiệu nổi tiếng. Chính vì vậy ta cần xây dựng riêng cho
mình một thương hiệu để khẳng định sản phẩm của mình trên thị
trường.
Thương hiệu giúp người tiêu
dùng nhận biết được sản phẩm, của tổ chức, cá nhân đưa sản phẩm đó ra thị
trường.Thương hiệu ngoài yếu tố thương mại được nhấn mạnh còn nhắc đến sự xác
định rõ ràng về nguồn gốc của hàng hoá. Một thương hiệu thành công đánh dấu một
sản phẩm có lợi thế cạnh tranh bền vững. Dù là bánh tráng hay bất cứ loại sản
phẩm nào cũng cần phải có thương hiệu. Cũng như con người ta phải có cái tên để
khi nhắc đến thì biết đó là ai. Thương hiệu còn là sự cam kết của người sản
xuất, kinh doanh đối với người tiêu dùng về uy tín, chất lượng, độ an
toàn.
Nhìn từ góc độ đơn giản,
thương hiệu bánh tráng chính là sự nhìn nhận của người tiêu dùng, của thị trường
về các sản phẩm. Nếu thị trường thừa nhận bánh tráng có chất lượng cao, có độ ổn
định về chất lượng, đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, có bao
gói, mẫu mã đẹp, v.v thì bánh tráng đó sẽ được trả giá cao tương xứng hoặc trong
một số trường hợp người tiêu dùng sẵn lòng chi trả còn cao hơn giá trị thật vốn
có, đó chính là giá trị do thương hiệu tạo
ra.
Vì vậy, việc xây dựng thương
hiệu trong sản xuất, kinh doanh bánh cũng như các sản phẩm công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp phục vụ tiêu dùng nội địa và xuất khẩu là rất cần
thiết.
Sau đó, do nhu cầu tiêu thụ
tăng nhanh, do tính chất công nghiệp hóa, bánh tráng được sản xuất hàng loạt để
đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng trong nước và hiện nay, bánh tráng đang vươn
đến thị trường thế
giới.
Bánh tráng mang ý nghĩa là
món ăn truyền thống của dân tộc
Việt Nam ,
do đó hầu như chỉ có nước ta mới sản xuất loại bánh
này.
Trong thời gian gần đây,
nhằm mục đích cơ giới hóa quy trình sản xuất bánh tráng, cũng như nâng cao chất
lượng sản phẩm, nhiều đề tài nghiên cứu về bánh tráng mang tính khả thi cao xuất
hiện khá nhiều ở nước ta, mở ra hướng phát triển mới cho dòng sản phẩm
này.
Đơn cử là đề tài “Công nghệ
sản xuất bánh đa nem” của PGS.TS Mai Văn Lề, nội dung chính là giới thiệu mô
hình dây chuyền sản xuất bánh đa nem bán cơ giới không liên tục, đạt 50kg sản
phẩm/ca. Vì tính khả thi cao nên mô hình này đã được đưa vào áp dụng tại nhà máy
chế biến thực phẩm Thanh Hóa, mặc dù còn khá nhiều khâu phải thực hiện thủ
công.
Ngoài ra, không thể không
nhắc đến đề tài “Nghiên cứu thiết kế và chế tạo hệ thống thiết bị sản xuất bánh
tráng” – với năng suất 300kg sản phẩm bánh tráng/ca – do PGS.TS Trần Doãn Sơn
làm chủ nhiệm đề tài. Nội dung chính là đưa ra mô hình sản xuất bánh tráng mỏng
khá quy mô, hiện đang được nhiều xí nghiệp sản xuất bánh tráng đưa vào sử dụng
như xí nghiệp chế biến thực phẩm Cầu Tre, xí nghiệp sản xuất bánh tráng Trà
Vinh, xí nghiệp chế biến lương thực Safoco thuộc công ty lương thực thành phố Hồ
Chí Minh,
…
Đó là những tín hiệu đáng
mừng, mở ra triển vọng mới cho sự phát triển của bánh
tráng.
III. Cơ sở khoa học của kỹ thuật sản xuất bánh tráng
Kỹ thuật sản xuất bánh tráng
phụ thuộc rất nhiều vào tính chất công nghệ của bột, đó là khả năng tạo màng.
Khả năng tạo màng lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất là
cấu tạo và thành phần của tinh
bột.
- Tỷ lệ amylose và amylopectin trong nguyên
liệu:
Trong sản xuất bánh tráng,
chỉ tiêu quan trọng nhất của sản phẩm chính là độ dai của bánh, độ dai này được
quyết định bởi hàm lượng amylopectin của tinh bột, loại tinh bột nào có hàm
lượng amylopectin cao hơn thì màng tạo thành sẽ có độ dai lớn
hơn.
Bảng : Hàm lượng amylose và
amylopectin trong một số loại tinh
bột
Tinh
bột
|
Amylose
(%)
|
Amylopectin
(%)
|
Lúa
mì
|
25.0
|
75.0
|
Khoai
tây
|
20.0
|
80.0
|
Khoai
lang
|
19.0
|
81.0
|
Gạo
tẻ
|
18.5
|
81.5
|
Khoai
mì
|
17.0
|
83.0
|
Gạo
nếp
|
0.7
|
99.3
|
Tử bảng trên, ta thấy gạo
nếp và khoai mì có hàm lượng amylopectin cao nhất, do đó sản phẩm bánh tráng tạo
thành sẽ có độ dai tốt nhất. Độ dai của sản phẩm giảm dần khi chọn nguyên liệu
từ gạo tẻ đến lúa
mì.
- Khả năng tạo
màng:
Để tạo màng, các phân tử
tinh bột (amylose và amylopectin) sẽ dàn phẳng ra, sắp xếp lại và tương tác trực
tiếp với nhau bằng liên kết hydro hoặc gián tiếp qua phân tử
nước.
ü Quá trình tạo màng bánh tráng có thể gồm ba
giai đoạn sau:
- Giai đoạn
1:
Từ bề mặt, nước bốc hơi,
nồng độ tinh bột tăng lên, các phân tử tinh bột tiến lại gần nhau, hướng từ biên
vào tâm dưới tác dụng của dòng môi trường phân
tán.
- Giai đoạn 2:
Nước nằm giữa các phân tử
tinh bột tiếp tục bốc hơi, các phân tử tinh bột tiếp xúc với nhau
nhiều hơn và tiếp tục bị biến dạng. Sức căng bề mặt có vai trò rất lớn, có
khuynh hướng làm co bề mặt của hệ thống. Mức độ các phân tử tinh bột bị biến
dạng phụ thuộc vào module đàn hồi và độ nhớt của chúng. Có thể thêm vào các chất
hóa dẻo để tạo ra màng có độ đồng đều
hơn.
- Giai đoạn
3:
Khi tiếp xúc với nhau, các
phân tử tinh bột bắt đầu thể hiện lực cố kết. Các tính chất cơ lý của màng sẽ
phụ thuộc vào các hiện tượng xảy ra trong giai đoạn
này.
Khi khô, thể tích của màng
bị giảm, dẫn đến sự co ngót chiều dày và xuất hiện ứng suất nội. Sự co ngót màng
càng lớn khi nồng độ tinh bột càng nhỏ và sự hydrate hóa càng cao. Do đó, người
ta thường thêm vào các chất pha loãng để làm giảm sự hydrate hóa và do đó giảm
sự co
ngót.
v Các yếu tố ảnh hưởng quá trình tạo màng:
ü Nồng độ của dung dịch:
Quá trình bốc hơi làm thể
tích của màng bị giảm, dẫn đến sự co ngót về chiều dày, sự co ngót càng lớn khi
nồng độ tinh bột càng nhỏ, và ngược
lại.
ü Quá trình bốc hơi
nước:
Màng thu được từ dung dịch
có nồng độ thấp, tốc độ bay hơi lớn, mạch phân tử tinh bột được định hướng một
cách mạnh mẽ. Vì vậy, tốc độ bốc hơi nước phải điều chỉnh hợp lý bằng cách thay
đổi nhiệt độ, thay đổi tốc độ chuyển dịch và trao đổi không
khí.
v Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm
bánh
tráng:
ü Quá trình sấy bánh
tráng:
Đây là quá trình quan trọng
nhất trong quy trình sản xuất bánh tráng, nếu thực hiện quá trình này không đạt
yêu cầu thì bánh tráng dễ
vỡ.
ü Quá trình tạo
màng:
Phụ thuộc vào nồng độ dung
dịch, quá trình bốc hơi nước, phụ
gia.
ü Tỷ lệ
amylose/amylopectin:
· Amylose làm sản phẩm cứng giòn, hút nước
kém.
· Amylopectin làm sản phẩm dẻo, hút nước
tốt.
→ Sản phẩm bánh tráng từ
nguồn tinh bột giàu amylopectin có chất lượng tốt hơn từ nguồn tinh bột giàu
amylase.
v Nguyên nhân chủ yếu làm màng tinh bột bị giòn,
rách, gãy,
vỡ:
Do khi tạo màng, đã xảy ra
đồng thời hai quá trình
sau:
ü Sự giảm dần thể tích của chất tạo màng tinh
bột do nước bị bốc
hơi.
ü Sự hình thành dần dần và vững chắc hóa cấu
trúc cục bộ dẫn đến làm mất độ linh động, độ chảy nhớt và làm xuất hiện một độ
bền nào đó ở trong màng còn chưa hoàn
chỉnh.
Trong khi bề mặt của khuôn
định hình không có khả năng thay đổi kích thước, do đó màng sẽ phát sinh ứng
suất nội. Nếu ứng suất này bé hơn độ bền của cấu trúc đã hình thành lúc đó thì
khi co ngót không làm rách màng. Nếu ứng suất này lớn hơn độ bền của cấu trúc
màng lúc đó thì khi co ngót, màng bị
rách.
Có thể khắc phục hiện tượng trên bằng cách
tăng nhiệt độ tạo màng lên một ít để tăng chuyển động nhiệt của các phân tử tinh
bột, do đó sẽ phá vỡ các cấu trúc mới tạo ra. Hoặc bằng cách tăng sự tạo cấu
trúc để màng vừa tạo thành bền và đàn hồi để không bị đứt khi co ngót (thường
thêm chất hóa dẻo).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét