II. Nguyên liệucho sản xuất rượu vang:
1. Nho:
Nho thuộc họ
Vitis. Nho là loại trái cây dùng làm nguyên liệu truyền thống sản xuất rượu
vang. Dựa vào nguồn gốc của giống nho, có thể chia thành 2 nhóm cơ
bản:
Nho trắng:
trái nho khi chín vỏ không có màu hoặc có màu vàng lục nhạt.
Nho đỏ: trái
nho khi chín có màu đỏ tím ở những mức độ khác nhau.
Trong sản xuất vang trắng, có thể sử dụng cả nho trắng và nho đỏ.
Tuy nhiên, khi sản xuất vang trắng với nho đỏ thì công đoạn xử lí nguyên liệu
phức tạp hơn. Do đó, người ta thường sử dụng nho trắng để sản xuất rượu vang
trắng.
Để đảm bảo
cho sản phẩm có chất lượng cao, cần phải tách và xử lí riêng các chùm nho, quả
nho bị dập trong quá trình thu hái nho chín.
Phần lớn các
loại nho dùng để làm rượu vang trắng và đỏ khi được gặt hái thì sẽ đạt khoảng
0,65% độ acid và 23o Brix.
Đa số, các
nghệ nhân làm rượu vang quyết định thời điểm gặt hái nho bằng thông qua việc
đánh giá mầu sắc nho và nếm quả nho.
Bảo quản nho
nguyên liệu: có thể bảo quản bằng kho lạnh nhằm hạn chế vi sinh vật phát
triển.
a. Cấu tạo quả
nho:
a. Thành phần
hóa học:
- Nước: chiếm
từ 70
- 78% khối lượng. Nước chủ yếu nằm ở phần thịt quả.
- Đường:
10-30%, bao gồm glucose, fructose, saccharose.
- Các axit hữu
cơ : 0,5-1,7%, bao gồm axit malic, factoric.
- Protein:
0,1-0,9%.
- Peptin:
0,1-0,3%.
- Chất khoáng:
0,1-0,5%.
- Chứa nhiều
Vitamin C, B1, B2, PP và các chất thơm
khác.
Nho
là loại quả lí tưởng nhất để lên men chế biến rượu vang vì:
- Quả
nho có chất lượng, giá trị dinh dưỡng cao, tạo hương vị đậm đà, đặc
trưng.
- Thành
phần hóa học trong dịch nho rất thích hợp cho nấm men phát
triển.
- Tỉ
lệ dịch nước ép được cao.
2.
Hệ vi sinh vật trong lên men rượu vang tự nhiên:
Hệ vi
sinh vật trong lên men rượu vang tự nhiên tương đối phức tạp và không đồng nhất
trong các giai đoạn của quá trình lên men.
Trong
nước nho tươi có những nhóm vi sinh vật khác nhau từ môi trường xung quanh, chủ
yếu ở vỏ quả, thân, cuống và thiết bị. Phần lớn
trong phức hệ này là nấm mốc (76 – 90%), nấm men (9 – 22%), số còn lại chiếm tỷ
lệ thấp là vi khuẩn không sinh bào tử hoặc có bào tử, xạ khuẩn
và Micobacter.
Độ acid
của nước nho khá cao (pH = 2,7 – 3,8) là điều kiện không thuận lợi cho các vi
sinh vật phát triển.
Ở môi
trường có độ chua lớn thường chỉ thích hợp với nấm mốc và nấm men. Nấm men
trong nước quả tươi thường ít hơn nấm mốc, nhưng nấm men lại có khả năng phát
triển và tăng sinh khối nhanh trong điều kiện thiếu oxy hoặc kỵ khí, đồng thời
lên men tích tụ cồn. Điều kiện
kỵ khí và trong dung dịch có cồn làm ức chế nấm mốc. Chính
trong điều kiện này nấm men đã cạnh tranh và phát triển chiếm ưu thế trong quá
trình lên men tự nhiên.
Trong
các loài nấm men cũng cạnh tranh nhau chỉ có các loài có khả năng đồng hóa đường
nhanh tạo độ cồn cao mới dần dần chiếm ưu thế ở giai đoạn lên men chính và lên
men phụ.
Các
công trình nghiên cứu đều xác định rằng, hệ nấm men trong giai đoạn đầu lên men
nước nho là kloeckera –
nấm men có dạng hình chùy chiếm phần lớn và hoạt động tích tụ được 2 – 4 độ cồn
rồi ngừng hoạt động và chết dần, sau đó là nấm men rượu vang thực thụ (Saccharomyces
cerevisiae và Saccharomyces
oviformics) phát triển và đóng vai trò chủ yếu trong lên men chính và lên
men phụ.
3.
Nấm men:
Nấm
men là tên chung chỉ nhóm nấm men có cấu tạo và sinh sản bằng cách nảy chồi và
phân cắt. Chúng phân
bố rộng rãi khắp nơi. Đặc biệt
chúng có mặt nhiều ở đất trồng nho và các nơi trồng hoa quả. Ngoài ra
thấy chúng có mặt trên trái cây chín, trong nhụy hoa, trong không khí và cả nơi
sản xuất rượu vang.
3.1
Hình dạng và kích thước:
-
Hình dạng tế bào nấm men:
Nấm
men thường có hình dạng khác nhau, thường có hình cầu, hình elip, hình trứng,
hình bầu dục và cả hình dài. Một số
loài nấm men có tế bào hình dài nối với nhau thành những dạng sợi gọi là khuẩn
ty (Mycelium) hay khuẩn ty giả (Pseudo mycelium). Tuy nhiên
hình dạng của chúng không ổn định, phụ thuộc vào tuổi của nấm men và điều kiện
nuôi cấy.
-
Kích thước tế bào nấm men:
Tế
bào nấm men thường có kích thước rất lớn gấp từ 5 – 10 lần tế bào vi
khuẩn.
Kích
thước trung bình:
- Chiều
dài: 9 – 10 m
- Chiều
rộng: 2 – 7 m
Kích
thước cũng thay đổi, không đồng đều ở các loài khác nhau, ở các lứa tuổi khác
nhau và điều kiện nuôi cấy khác nhau.
3.2.
Cấu tạo tế bào nấm men:
Tế
bào nấm men cũng như nhiều loại tế bào khác được cấu tạo chủ yếu từ các phần cơ
bản như sau:
- Thành
tế bào: cấu tạo từ nhiều thành phần khác nhau. Trong đó
chủ yếu là: glucan, manan, protein, lipid và một số thành phần nhỏ khác như
kitin, volutin,…
- Màng
nguyên sinh chất: gồm các hợp chất phức tạp như protein, phospholipit enzyme
permeaza…
- Chất
nguyên sinh: thành phần cấu tạo chủ yếu là nước, protit, gluxit, lipit và các
muối khoáng, enzyme và có các cơ quan trong đó.
- Nhân
tế bào.
- Những
thành phần – cơ quan con khác: không bào, ty lạp thể,
riboxom,…
3.3.Sự
sinh sản của nấm men:
Nấm
men có một số hình thức sinh sản sau:
-
Sinh sản bằng cách nảy chồi.
-
Sinh sản bằng cách phân đôi.
-
Sinh sản bằng bào tử và sự hình thành bào tử.
+ Tiếp
hợp đẳng giao.
+ Tiếp
hợp dị giao.
+ Sinh
sản đơn tính.
3.4.
Phân loại nấm men:
Chủ
yếu có hai lớp: nấm men thật (Ascomyces) và lợp nấm men giả (Fungi
imporfecti)
-
Lớp nấm men thật (lớp Ascomyces– lợp nấm
túi):
+ Phần
lớn nấm men dùng trong công nghiệp thuộc lớp Ascomyces, đa
số thuộc giống Saccharomyces.
+
Giống Endomyces
+
Giống Schizosaccharomyces
-
Lớp nấm men giả (Fungi imporfecti – nấm men bất
toàn)
+ Crytococus (toscula,
tornlopsis)
+ Mycoderma
+ Eandida
+ Geotrichum(đã
được xếp vào lớp nấm mốc)
+ Rhodotorula
3.5.
Các quá trình sinh lí của tế bào nấm men:
*
Sinh dưỡng của nấm men:
Cấu
tạo của tế bào nấm men thay đổi khác nhau tùy theo loài, độ tuổi và môi trường
sống, nhưng nhìn chung bao gồm:
-
Nước: 75 – 85%
-
Chất khô: 15 – 25% . Trong đó
chất khoáng chiếm 2 – 14% hàm lượng chất khô.
Bảng 1. Thành phần hóa học của nấm men
Các
chất
|
Thành
phần (% chất khô)
|
Cacbon
CaO
Nitro
Hydro
P2O5
K2O
SO3
MgO
Fe2O3
SiO
|
49,8
12,4
6,7
3,54
2,34
0,04
0,42
0,38
0,035
0,09
|
Nấm
men cũng như các sinh vật sống khác cần oxy, hydro, cacbon, nitơ, phospho, kali,
magiê,…
-
Dinh dưỡng Cacbon:
Nguồn
Cacbon cung cấp là các loại đường khác nhau: saccarose, maltose, lactose,
glucose…
Hô hấp hiếu khí:
C6H12O6+
6O2 >>
6CO2+ 6H2O + 674
cal
Hô hấp kị khí
C6H12O6 >>
2CH3CH2OH +
2CO2 + 33 cal
- Dinh dưỡng oxy, hydro: được cung cấp cho
tế bào từ nước của môi trường nuôi cấy hay dịch.
- Dinh dưỡng Nitơ:
Nấm men không có men ngoại bào để phân giải
protid, nên không thể phân cắt albumin của môi trường mà phải cung cấp nitơ ở
dạng hòa tan, có thể là đạm hữu cơ hoặc vô cơ. Dạng hữu
cơ thường dùng là acid amin, pepton, amid, urê. Đạm vô cơ
là các muối amon khử nitrat, sulfat…
- Các vitamin và chất
khoáng:
Chất khoáng có ảnh hưởng to lớn đến hoạt
động sống của nấm men.
+ Phospho: có trong thành phần
nucleoprotein, polyphosphat của nhiều enzyme của sản phẩm trung gian của quá
trình lên men rượu, chúng tạo ra liên kết có năng lượng lớn.
+ Lưu huỳnh: tham gia vào thành phần một số
acid amin, albumin, vitamin và enzyme.
+ Magiê: tham gia vào nhiều phản ứng trung
gian của sự lên men.
+ Sắt: tham gia vào các thành phần enzyme,
sự hô hấp và các quá trình khác.
+ Kali: chứa nhiều trong nấm men, nó thúc
đẩy sự phát triển của nấm men, tham gia vào sự lên men rượu, tạo điều kiện phục
hồi phosphorin hóa của acid pyruvic.
+ Mangan: đóng vai trò tương tự như
magiê.
* Cơ chế vận chuyển các chất dinh dưỡng vào
trong tế bào nấm men:
Nấm men hoàn toàn không có cơ quan dinh
dưỡng riêng biệt, các chất dinh dưỡng mà nó sử dụng chủ yếu được vận chuyển qua
thành tế bào theo hai con đường cơ bản.
- Thẩm thấu bị động: trên thành tế bào nấm
men có những lỗ nhỏ, những lỗ này có tác dụng làm cho chất dinh dưỡng vận chuyển
vào trong tế bào từ môi trường bên ngoài nhờ áp suất thẩm thấu, ngược lại chất
thải trong quá trình trao đổi cũng được thải ra theo con đường
này.
- Hấp thu chủ động: các thành phần dinh
dưỡng không có khả năng xâm nhập vào tế bào theo con đường thứ nhất thì lập tức
có hệ permeaza hoạt hóa. Permeaza là một protid hoạt động, chúng liên kết với
chất dinh dưỡng tạo thành hợp chất và hợp chất này chui qua thành tế bào trong,
tại đây chúng lại tách ra và permeaza lại tiếp tục vận chuyển
tiếp.
* Quá trình sinh trưởng và phát
triển:
- Sự sinh trưởng:
Trong quá trình nuôi cấy, trong điều kiện
dinh dưỡng đầy đủ, tế bào nấm men tăng nhanh về kích thước và đồng thời sinh
khối được tích lũy nhiều.
- Sự phát triển:
Các nấm men sinh sản bằng phương pháp nhân
đôi thường cho lượng sinh khối rất lớn sau một thời gian ngắn. Trong trường hợp
sinh sản theo phương pháp này thì trong dịch nuôi cấy sẽ không có tế bào già. Vì
rằng tế bào được phân chia thành hai cứ như vậy tế bào lúc nào cũng ở trạng thái
đang phát triển. Tế bào chỉ già khi môi trường thiếu chất dinh dưỡng và tế bào
không có khả năng sinh sản nữa.
Tuy nhiên đa số nấm men sinh sản bằng phương
pháp nảy chồi nên hiện tượng phát hiện tế bào già rất rõ. Khi chồi non tách khỏi
tế bào mẹ để sống độc lập thì nơi tách đó trên tế bào mẹ tạo thành một vết sẹo.
Vết sẹo này sẽ không có khả năng tạo ra chồi mới. Cứ như vậy tế bào mẹ sẽ chuyển
thành tế bào già theo thời gian.
Để xác định số lượng tế bào nấm men phát
triển theo thời gian hiện nay người ta dùng nhiều phương pháp khác nhau
như:
+ Xác định số lượng tế bào bằng phương pháp
đếm trực tiếp trên kính hiển vi hay gián tiếp trên mặt thạch.
+ Đo độ đục của tế bào trong dung dịch nuôi
cấy trên cơ sở xây dựng một đồ thị chuẩn của mật độ tế bào…
Quá trình sinh trưởng của nấm men trong dịch
lên men tĩnh có thể chia làm 5 giai đoạn:

· Giai đoạn tiềm phát: giai đoạn này tế bào
làm quen với môi trường, sinh khối chưa tăng nhiều.
· Giai đoạn logarit: đây là giai đoạn phát
triển rất nhanh, sinh khối tăng ào ạt, kèm theo sự thay đổi mạnh mẽ của dịch lên
men.
· Giai đoạn chậm dần: tốc độ sinh trưởng nấm
men giảm dần, thành phần dịch lên men còn lại ít, các sản phẩm lên men được tích
tụ nhiều.
· Giai đoạn ổn định: số lượng tế bào nấm men
không tăng nữa, tốc độ sinh sản bằng tốc độ chết.
· Giai đoạn chết: tốc độ chết tăng nhanh, tốc
độ sinh sản rất ít do đó số lượng tế bào nấm men giảm
dần.
3.6. Các hình thức hô hấp của nấm
men:
Ở nấm men hô hấp là quá trình hô hấp khá
phức tạp, nó xảy ra theo hai chiều hướng khác nhau. Vì thế
người ta phân thành 2 loại hô hấp : hô hấp hiếu khí và hô
hấp yếm khí.
3.7.
Một số loài nấm men thường gặp trong sản xuất rượu vang:
Sau
đây là một số loài nấm men thường gặp trong nước quả có vai trò quan trọng trong
nghề làm rượu vang.
3.7.1. Saccharomyces
cerevisiae:
Đây
là tên hiện nay dùng phổ biến, trước đây người ta gọi là Saccharomyces
cerevisiae Meyer hay là S.
ellipsoideus theo Lodder là Saccharomyces
vini.
Nấm
men này phổ biến trong quá trình lên men nước quả chiếm tới 80% trong tổng
số Saccharomyces có trong nước quả khi lên
men. Khả năng
kết lắng của nó phụ thuộc vào từng nòi: các tế bào dạng bụi hoặc dạng bông. Nguồn dinh
dưỡng cacbon của loại này là đường, cồn và acid hữu cơ, những tác nhân sinh
trưởng là acid pantotinic, biotin, mezoinozit, thiamin và
piridoxin.
Đa
số các tế bào của loài này hình ovan có kích thước (3 – 8) x (5 –
12) m,
sinh sản theo lối nẩy chồi và tạo thành bào tử. Saccharomyces
cerevisiae sinh ra enzyme invectara
có khả năng khử đường sacaroza thành fructoza và glucoza, vì vậy trong lên men
ta có thể bổ sung loại đường này vào dung dịch quả và hàm lượng rượu được tạo
thành bình thường đối với nhiều nòi của men này chỉ đạt được 8 – 10% so với thể
tích.
Ở
giai đoạn cuối lên men Saccharomyces
cerevisiae kết lắng nhanh và làm trong dịch
rượu.
Ở
nòi của giống này có đặc tính riêng về khả năng tạo cồn, chịu sunfit, tổng hợp
các cấu tử bay hơi và các sản phẩm thứ cấp tạo ra cho vang có mùi vị đặc trưng
riêng biệt.
Giai
đoạn cuối cùng của quá trình lên men các tế bào Saccharomyces
cerevisiae thường bị già, không tiếp tục chuyển đường thành cồn
và bị chết rất nhanh.
3.7.2. Saccharomyces
uvarum:
Men
này được tách từ nước nho, rượu len men tự nhiên. Về hình
thái nó không khác với các loài khác. Khả năng
sinh bào tử khá mạnh trên môi trường thạch – malt. Các nòi
của loài này có thể lên men 12 – 130cồn trong dung dịch nước
nho. Một vài
nòi được dùng trong sản xuất rượu vang.
3.7.3. Saccharomyces
chevalieri:
Theo
Lodder là Saccharomyces
chevalieri Guilliermond. Nấm men
này được tách từ nước nho lên men tự nhiên, từ rượu vang non được gây men nước
dừa hoặc nước cọ. Saccharomyces
chevalieri thuần chủng lên men nước nho có thể tạo
160 cồn. Nó thường
lẫn với Saccharomyces
cerevisiae.
3.7.4. Saccharomyces
oviformics:
Theo
Lodder là Sac. Beuanes
saccardo. Được tách
ra từ nước nho tự lên men, nhưng loại nấm men này ít hơn so với Sacch. vini. Giống
thuần chủng phát triển tốt trong nước nho và các loại nước quả khác, có khả năng
chịu được đường cao, cồn cao, lên men kiệt đường và tạo thành tới
180 cồn.
Các
yếu tố sinh trưởng của loại này giống như Sacch.
vini và có khả năng chịu được cồn cao. Dùng các
nòi thuần chủng của giống này lên men dịch quả có hàm lượng đường cao để chế
vang khô cho kết quả tốt.
Có
hình dáng giống như Saccharomyces
cerevisiae và có thể tạo thành 18% rượu trong quá trình lên
men, giống này tạo thành màng trên dịch quả. S.
oviformis lên men được glucose, fructose, mantose, saccarose,
maltose và 1/3 rafinose, không lên men được lactose, pentose. Điều khác
nhau cơ bản của S.
oviformis với S.
vini là: S. oviformiskhông
lên men được galactose và men nổi lên bề mặt dịch lên men tạo thành
màng.
Hai
giống sản xuất rượu vang này (S.
vini và S. oviformis) có
nhiều nòi được dùng trong sản xuất.
3.7.5. Hanseniaspora
apiculate – Kloeckera apiculata:
Kloeckera
apiculata:
kích thước tương đối nhỏ, có hình ovan – elip hoặc hình quả chanh, tế bào có một
đầu nhỏ người ta thường gọi là men hình chùy. Sinh sản
bằng nảy chồi, rất phổ biến ở vỏ quả và nhiễm vào nước quả chiếm đến 90% tổng số
men khi bắt đầu lên men. Nó có thể
lên men tạo thành 6 – 70 cồn, nhưng tạo ra một loạt các
acid bay hơi cũng như các este của chúng làm cho dịch có mùi tạp và nó còn kìm
hãm các loài nấm men chính trong lên men, K. apiculatanhạy
cảm với SO2.
Trong
nghề làm rượu vang người ta không mong muốn loài men này phát triển, nếu có thì
chỉ cần có trong giai đoạn đầu tạo được 3 –
40 cồn.
3.8.
Yêu cầu đối với chọn nấm men thuần chủng:
Các
loài nấm men thuần khiết dùng nhiều trong sản xuất rượu vang thuộc
giống Saccharomyces
cerevisiae và Saccharomyces
oviformis.
Các
chủng nấm men thuần khiết này, có sự khác nhau về tốc độ sinh trưởng, khoảng
nhiệt độ thích hợp để lên men, khả năng tạo cồn và chịu cồn, khả năng chịu được
pH thấp cũng như khả năng kết lắng (tạo thành dạng bông hoặc dạng
bụi).
-
Những yêu cầu đối với nấm men rượu vang là:
+
Có hoạt lực lên men cao đối với nước quả
+
Sử dụng đường cho lên men gần như hoàn toàn
+
Kết lắng tốt
+
Làm trong dịch rượu nhanh
+
Chịu được độ rượu cao và độ acid của môi trường cũng như các chất sát
trùng
+
Tạo cho rượu hương vị thơm ngon tinh khiết
3.9.
Các yếu tố ảnh hưởng tới nấm men trong lên men rượu vang:
5.3.9.1.
Oxy:
Hầu
hết các chủng nấm men trong lên men rượu vang thuộc giống Saccharomyces. Chúng là
nhóm vi sinh vật kỵ khí tùy tiện. Khi trong
môi trường đủ lượng oxy nấm men phân hủy đường dùng làm nguồn năng lượng và cấu
tạo tế bào tăng sinh khối.
Trường
hợp thiếu oxy (kỵ khí) nấm men sử dụng phần oxy hòa tan trong môi trường để sinh
trưởng và chủ yếu là lên men.
Trong
quá trình lên men giai đoạn đầu yêu cầu oxy cao nhất để nấm men sinh sản, phát
triển tăng sinh khối. Nếu có
giai đoạn nhân giống thì cũng cần phải cung cấp oxy bằng cách lắc hoặc sục
khí.
3.9.2.
Nhiệt độ:
Nhiệt
độ lên men có ảnh hưởng đến đời sống của nấm men, đến quá trình lên men và chất
lượng của sản phẩm.
Nhiều
công trình nghiên cứu về sản xuất rượu vang đã xác định được khoảng nhiệt độ lên
men rượu vang trắng thích hợp là 15 – 300C, nếu lên men ở những thang
độ thấp hơn thì càng tốt. Còn lên
men rượu vang đỏ (nước quả lẫn với xác quả) phải chiết xuất các chất thơm và
polyphenol từ vỏ quả nên cần thang độ cao hơn, thường là
250C.
Nhiệt
độ lên men cao, thời gian của quá trình lên men ngắn, độ cồn có thể thấp, đường
sót còn nhiều và hương vị của sản phẩm có khi không tốt.
3.9.3.
Hàm lượng đường:
Trong
nước quả thường có hàm lượng đường không đều do vậy người ta thường bổ sung thêm
đường saccaroza. Đa số các
loại nấm men hoạt động bình thường trong môi trường đường dưới 20%. Có một số
chủng hoạt động ở môi trường có đường cao hơn. Khi nhân
giống thường dùng môi trường có đường thấp dưới 10%.
3.9.4. pH của môi
trường:
Trong
thực tế lên men những dịch quả chua thường được rượu vang ngon. Đối với
dịch quả thường có độ pH từ 2.8 – 3.8. Khoảng pH
này nấm men vẫn hoạt động được. Vùng pH
tối thích của nấm men là 4 – 6.
Trong sản xuất rượu vang người ta thường chuẩn bị môi trường nước
quả có độ pH bằng 3.0 – 3.5.
3.9.5.
Nguồn Nitơ:
Đa
số trong nước quả có các hợp chất nitơ đủ cung cấp cho nấm men. Tuy nhiên
cũng có trường hợp không đủ nguồn nitơ do đó cần bổ sung thêm nguồn nitơ. Trong
trường hợp này người ta thường dùng amon sulphat
(NH4)2SO4. Cũng có
thể dùng men tự phân cho thêm vào môi trường. Nếu dịch
quả quá chua dùng tartrat amon-kali hay amon hydroxy trung hòa bớt
acid.
Đối
với dịch nhân giống hoặc hoạt hóa giống thì hỗn hợp các nguồn nitơ và các chất
sinh trưởng rất có ý nghĩa.
Trong
nước quả thường có đủ các chất khoáng đối với nhu cầu của nấm men. Vì vậy,
không cần phải bổ sung thêm chất khoáng. Tuy nhiên
trong nghiên cứu cũng như trong nhân giống có thể thêm nguồn phospho kali ở dạng
muối phosphat và magiê ở dạng muối sulfat.
Ngoài
ra để chống oxy hóa nước quả, người ta có thể thêm hóa chất vào nước quả sau khi
ép và trước khi lên men. Chất dùng
rộng rãi là SO2(anhydrit sunphurơ). SO2 là
hóa chất được cho phép dùng trong sản xuất rượu vang ở hầu hết trên thế giới và
có tác dụng nhiều mặt: chống oxy hóa, làm giảm hoặc tiêu diệt vi khuẩn có
hại. Nguồn
SO2 phổ biến trong rượu vang là natri sunfit
Na2SO3. Không nên
dùng quá liều lượng cho phép sẽ làm cho rượu vang có mùi khó chịu và diệt một số
vi khuẩn có ích.
4.
Đường:
Đường
Saccharose là nguyên liệu thường được sử dụng để bổ sung vào môi trường lên men
nhằm điều chỉnh độ đường đạt hàm lượng cần thiết cho quá trình lên men sản xuất
rượu vang.
Yêu cầu của đường bổ sung vào là đạt các chỉ tiêu về chất lượng: tiêu chuẩn cảm quan, tiêu chuẩn hóa lý và tiêu chuẩn vi sinh.
Yêu cầu của đường bổ sung vào là đạt các chỉ tiêu về chất lượng: tiêu chuẩn cảm quan, tiêu chuẩn hóa lý và tiêu chuẩn vi sinh.
5.
Nước:
Hàm
lượng chất khô trong môi trường trước lúc lên men thường vào khoảng 20% (theo
trọng lượng). Như vậy trong rượu vang thành phẩm, nước chiếm một tỷ lệ khá lớn
(khoảng 80%) và điều này cũng chứng tỏ nước là một trong những nguyên liệu sản
xuất rượu vang.
6.
Các chất phụ gia khác:
SO2hoặc
NaHSO3: thường được bổ sung trước khi lên men với liều lượng 50 –
200ppm. Mục đích là để ức chế, tiêu diệt các vi khuẩn có
hại.
Bentonit,
tanin và đất sét trắng là các chất trợ lắng, giúp cho quá trình lắng trong sản
phẩm được tốt hơn.
Enzyme
Pectinase: được bỏ sung vào nhằm mục đích làm trong và làm giảm độ nhớt cho sản
phẩm.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét