PHỤ GIA THỰC PHẨM/ PHẦN 1


I. Tổng quan về phụ gia thực phẩm
1.1. Lịch sử sử dụng chất phụ gia thực phẩm ở Việt nam và trên thế giới.
Người xưa đã biết dùng các chất phụ gia từ lâu, tuy chưa biết rõ tác dụng của chúng. Thí dụởnước ta nhân dân đã đố tđèn dầu hoả để làm chuối mau chín, mặc dầu chưa biết trong quá trình đốt cháy dầu ho đã sinh ra 2 tác nhân làm mau chín hoa quả là etylene và propylene.
Đến đầu thế kỷ 19, khi bắt đầu có ngành công nghiệp hoá học, người ta mớibắt đầu tổng hợp chất màu aniline (1856). Sau đó rất nhiều chất màu tổng hợp khác ra đời. Đối với các hương liệu cũng thế, đầu tiên người ta chiết xuất từ thực vật, rồi đem phân tích và tổng hợp lại bằng hoá học. Tới năm 1990 trừ vanille, tinh dầu chanh , cam, bạc hà được chiết xuất từ thực vật, còn các chất hương liệu khác đem sử dụng trong thực phẩm đều đã được tổng hợp.
Việc sản xuất thực phẩm ở quy mô công nghiệp và hiện đạị, đã đòi hỏi phải có nhiều chất
phụ gia, để làm dễ dàng cho chế biến thực phẩm.
Do sử dụng các chất phụ gia để bảo quản, đã tránh cho bột mì mốc, khi cho thêm chất
lindane hoặc cho malathion vào bột mì, các chất béo không bị ôi khét khi cho thêm các chất
chống oxy hoá, khoai tây có thể bảo quản chắc chắn qua mùa hè nếu cho thêm propane. Trong
các nước nhiệt đới, vấn đề bảo quản thực phẩm lại càng trở thành một vấn đề lớn. Theo OMS
(Tổ chức Y tế thế giới) hiện nay khoảng trên 20% nguồn thực phẩm đã bị hao hụt trong quá
trình bảo quản. Việc giao lưu các sản phẩm trong thời gian gần đây và sau này sẽ trở thành
vấn đề quốc tế có ý nghĩa rất lớn. Khoảng cách và thời gian thu hoạch theo mùa, không còn trở ngại chính nữa.
Người ta có thăn cà chua tươi quanh năm, cam có thể đưa đi tất cả các lục địa. Để chống mốc cho loại quả này, người tađã dùng diphenyl, và thấy có kết quả rất tốt.
Năm 1975,ở Mỹ các mặt hàng về thực phẩm đã lên tới 20.000 loại. Các nước ở châu âu cũng đã đạt được các sản phẩm chế biến trong lĩnh vực thực phẩm, với số lượng tương tự khi các chất phụ gia đảm bảo việc kéo dài thời gian bảo quản thực phẩm trên 6 tháng thì các sản phẩm chế biến trong lĩnh vực thực phẩm, sẽ còn tăng hơn nữa.
Phong cách sống thay đổi, đã làm thay đổi cách ăn của nhiều nước. Ở Pháp 1962 mới sử
dụng 55.0000 tấn thực phẩm chế biến sẵn, tới năm 1969 đã lên tới 150.000 tấn và sau năm
1975 đã tăng lên trên 400.000 tấn.
Khoai tây nghiền nhừ đóng lọ có các chất chống oxy hoá và chất chống khô đã tiết  kiệm được rất nhiều lao động và thời gian nấu nướng. Bánh mì cắt sẵn thành miếng mỏng, được bán rông rãi ở Hà lan và Đức có thể để nhiều ngày vẫn như mới sản xuất là nhờ có chất propionate calcium. Các loại mứt, hoa quả hộp, quả, hạt, quả khô,đường bánh , bơ, rượu.. bị mất màu tự nhiên trong quá trình chế biến và bảo quản,được gữi và hồi phục lại màu tự nhiên bằng các chất màu tổng hợp. Khẩu vị cũngđược thay đổi nhanh chóng, cùng với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật. Hiện nay có người,đến giờ ngồi vào bàn ăn, mà trong người không có cảm giácđói, ăn không thấy ngon.
Bữa ăn, có lúc không phải là một nhu cầu, là sự cần thiết, mà là một sự giải trí, hoặc bắt buộc. Do đó chúng ta cần các món ăn có màu và hình dáng thật hấp dẫn, hương vị thật kích thích, và khẩu vị có thể thích hợp với mọi người trong tất cả các điều kiện. Trong chế biến thực phẩm, do nhiều tác nhân cơ, lý, hoá, hương vị tự nhiên của thực phẩm sẽ bị giảm, và chúng ta không thể không tìm cách đưa thêm các chất có tác dụng tăng vị vào thực phẩm. Việc sản xuất nhiều loại thực phẩm mới, thay thế cho các sản phẩm động vật, thực vật tự nhiên, cần rất nhiều các chất phụ gia. Thí dụ chế biến giả thịt bò, lợn, gà, xúc xích ... Từ đậu tương hoặc men lơ-vuya được sinh tổng hợp từ parafine dầu hoả, với một số chất phụ gia có tác dụng kết dính được tăng thêm màu và hương vị. Trong lĩnh vực các chất phụ gia về hương liệu, các nhà khoa học đã có thành công đáng kể. Người ta đã chiết tách đượcở càfê có tới trên 300 thành phần hương liệu khác nhau. Tới nay riêng các loại bánh, bơ, fomat, rượu, quả, người ta đã phát hiệnđược trên 800 loại hương liệu, có mùi đặc trưng và việc làm giả các sản phẩm giống như thiên nhiên, không phải chỉ bó hẹp trong phạm vi sản xuất nhỏ nữa mà được mở rộng trên khắp thế giới.
1.2. Định nghĩa
 Phụ gia thực phẩm là một chất có hay không có giá trị dinh dưỡng, không được tiêu thụ thông thường như một thực phẩm và không được sử dụng như một thành phần của thực phẩm.
 Phụ gia thực phẩm là một chất chủ ý bổ sung vào thực phẩm để giải quyết mục đích công nghệ trong sản xuất, chế biến, bao gói, bảo quản, vận chuyển thực phẩm, nhằm cải thiện kết cấu hoặc đặc tính kỹ thuật của thực phẩm đó.
 Phụ gia thực phẩm tồn tại trong thực phẩm với một giới hạn tối đa cho phép đã được quy định.
1.3. Phân loại phụ gia thực phẩm:
o   Các axít: được bổ sung vào để làm cho hương vị của thực phẩm "sắc hơn", và chúng cũng có tác dụng như là các chất bảo quản và chống ôxi hóa. Các axít thực phẩm phổ biến là dấmaxít citricaxít tartaricaxít malicaxít fumaricaxít lactic.
o   Các chất điều chỉnh độ chua: được sử dụng để thay đổi hay kiểm soát độ chua và độ kiềm của thực phẩm.
o   Các chất chống vón: giữ cho các chất bột, chẳng hạn như sữa bột không bị vón cục.
o   Các chất chống tạo bọt: làm giảm hoặc ngăn chặn sự tạo bọt trong thực phẩm.
o   Các chất chống ôxi hóa: Các chất chống ôxi hóa như vitamin C có tác dụng như là chất bảo quản bằng cách kiềm chế các tác động của ôxy đối với thực phẩm và nói chung là có lợi cho sức khỏe.
o   Các chất tạo lượng: chẳng hạn như tinh bột được bổ sung để tăng số /khối lượng của thực phẩm mà không làm ảnh hưởng tới giá trị dinh dưỡng của nó.
o   Các chất tạo màu thực phẩm: được thêm vào thực phẩm để thay thế các màu sắc bị mất trong quá trình sản xuất hay làm cho thực phẩm trông bắt mắt hơn.
o   Chất giữ màu: ngược lại với các chất tạo màu, các chất giữ màu được sử dụng để bảo quản màu hiện hữu của thực phẩm.
o   Các chất chuyển thể sữa: các chất chuyển thể sữa cho phép nước và dầu ăn duy trì được thể hỗn hợp cùng nhau trong thể sữa, chẳng hạn trong maiônétkem và sữa.
o   Các chất tạo vị: là các phụ gia làm cho thực phẩm hương vị hay mùi cụ thể nào đó và có thể được tạo ra từ các chất tự nhiên hay nhân tạo.
o   Các chất điều vị: làm tăng hương vị sẵn có của thực phẩm.
o   Các chất xử lý bột ngũ cốc: được thêm vào bột ngũ cốc (bột mì, bột mạch v.v) để cải thiện màu sắc của nó hay sử dụng khi nướng bánh.
o   Các chất giữ ẩm: ngăn không cho thực phẩm bị khô đi.
o   Các chất bảo quản: chất bảo quản ngăn hoặc kiềm chế sự thối hỏng của thực phẩm bị gây ra bởi các hoạt động của nấm mốcvi khuẩn hay các vi sinh vật khác.
o   Các chất đẩy:  là các loại khí nén được sử dụng để đẩy thực phẩm ra khỏi đồ chứa đựng nó.
o   Các chất ổn định: các chất ổn định, tạo đặc và tạo gel, chẳng hạn aga hay pectin (sử dụng trong một số loại mứt hoa quả) làm cho thực phẩm có kết cấu đặc và chắc. Trong khi chúng không phải là các chất chuyển thể sữa thực thụ, nhưng chúng giúp cho các chất thể sữa ổn định hơn.
o   Các chất làm ngọt: các chất làm ngọt được bổ sung vào thực phẩm để tạo vị ngọt. Các chất làm ngọt không phải đường được thêm vào để giữ cho thực phẩm chứa ít năng lượng (calo) nhưng vẫn có vị ngọt của đường hay vì chúng có các tác động có lợi cho các bệnh nhân bị bệnh đái đường hay sâu răng.
o   Các chất làm đặc: các chất làm đặc là các chất mà khi thêm vào thực phẩm sẽ làm tăng độ dẻo mà không làm thay đổi đáng kể các thuộc tính khác của thực phẩm.
1.4. Ưu, nhược điểm khi sử dụng phụ gia thực phẩm
1.4.1. Các tác dụng tích cực của phụ gia thực phẩm:
Nếu sử dụng đúng loại, đúng liều lượng, các phụ gia thực phẩm có tác dụng tích cực:
·         Tạo được nhiều sản phẩm phù hợp với sở thích và khẩu vị của người tiêu dùng.
·         Giữ được chất lượng toàn vẹn của thực phẩm cho tới khi sử dụng.
·         Tạo sự dễ dàng trong sản xuất, chế biến thực phẩm và làm tăng giá trị thương phẩm hấp dẫn trên thị trường.
·         Kéo dài thời gian sử dụng của thực phẩm.
1.4.2. Những nguy hại của phụ gia thực phẩm:
Nếu sử dụng phụ gia thực phẩm không đúng liều lượng, chủng loại nhất là những phụ gia không cho phép dùng trong thực phẩm sẽ gây những tác hại cho sức khỏe:
·         Gây ngộ độc cấp tính: nếu dùng quá liều cho phép.
·         Gây ngộ độc mạn tính: dù dùng liều lượng nhỏ, thường xuyên, liên tục, một số chất phụ gia thực phẩm tích lũy trong cơ thể, gây tổn thương lâu dài.
Thí dụ: khi sử dụng thực phẩm có hàn the, hàn the sẽ được đào thải qua nước tiểu 81%, qua phân 1%, qua mồ hôi 3% còn 15% được tích luỹ trong các mô mỡ, mô thần kinh, dần dần tác hại đến nguyên sinh chất và đồng hóa các aminoit, gây ra một hội chứng ngộ độc mạn tính: ăn không ngon, giảm cân, tiêu chảy, rụng tóc, suy thận mạn tính, da xanh xao, động kinh, trí tuệ giảm sút.
·         Nguy cơ gây hình thành khối u, ung thư, đột biến gen, quái thai, nhất là các chất phụ gia tổng hợp.
·          Nguy cơ ảnh hưởng tới chất lượng thực phẩm: phá huỷ các chất dinh dưỡng, vitamin...
1.5. Các quy định pháp luật về việc sử dụng phụ gia thực phẩm.
1.5.1. Cơ sở để cho phép một chất trở thành PGTP.
Các chất phụ gia (CPG) được phép sử dụng trong thực phẩm cần có 3 điều kiện:
o   Có đầy đủ tài liệu nghiên cứu về kỹ thuật và công nghệ sử dụng CPG.
Cần phải đưa ra những tài liệu nghiên cứu về những tính chất hoá học, lý học và khả năngứng dụng của CPG giống như thiên nhiên, không phải chỉ bó hẹp trong phạm vi sản xuất nhỏ nữa.
o   Có đầy đủ tài liệu nghiên cứu về độc tố học.
Muốn có kết luận rõ ràng cần phải tiến hành nghiên cứu:
Các chất phụ gia phải được thử độc ít nhất trên 2 loại sinh vật, trong đó có một loại không phải là loài gậm nhấm, cơ thể sinh vật đó cần có các chức năng chuyển hoá gần giống như người.
Liều thử độc phải lớn hơn liều mà người có thể hấp thụ chất phụ giađó vào cơ thể
khi sử dụng thực phẩm (tính cho khối lượng một người tối thiểu là 50-100kg).
o   Có đầy đủ tài liệu nghiên cứu về các phương pháp phân tích.
Cần phải có các phương pháp phân tích đủ chính xác và thích hợp để xác định hàm lượng CPG có trong thực phẩm.
Khi muốn sử dụng chất phụ gia mới trong sản xuất thực phẩm, phải trình cho Hội đồng Vệ sinh ATTP tối cao Quốc gia thuộcbộ y tế các thủ tục sau:
-        Tên chất phụ gia, các tính chất lý học, hoá học và sinh vật học.
-        Tác dụng về kỹ thuật, nồng độ cần thiết, liều tối đa.
-        Khả năng gây độc cho cơ thể người (ung thư, quái thai, gây đột biến,...) thử trên vi sinh vật và theo dõi trên người.
-        Phương pháp thử độc vàđịnh lưng cht ph gia trong thc phm.
1.5.2. Các văn bản pháp luật của Nhà nước Việt nam và của nước ngoài về sử dụng PGTP
Khi sử dụng chất phụ gia trong thực phẩm phải  được các cơ quan quản lý cho phép
ở Việt nam.
Do Bộ Y tế và Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường và Chất lượng quản lý
Điều 10 về“Tiêu chuẩntạm thờivệ sinh 505/BYT-QĐ củaBộ y tế đã quyết định về việc sử dụng phụ gia trong chế biến lương thực thực phẩm như sau:
o    Không được phép sử dụng các loại phụ gia không rõ nguồn gốc, mất nhãn, bao bì hỏng. Không được phép sử dụng các loại phụ gia ngoài danh mục cho phép của Bộ Y tế.
o    Đối với các phụ gia mới, hoá chất mới, nguyên liệu mới, muốn đưa vào sử dụng trong chế biến, bảo quản lương thực thực phẩm, các loại nước uống, rượu và sản xuất các loại bao bì thực phẩm thì phải xin phép Bộ Y tế.
Trên thế giới
- FAO (Food and Agriculture Organization ò the United Notions) trụ sởở Rôm.
- OMS (Organizotion Mondial de la Santé)Trụ sở oqr Genevơ.
- FAO và OMS là thành phần của liên hợp quốc tập hợp 121 nước thành viên.
- EU (Eropéenne Union).
Để kiểm tra hàm lượng chất phụ gia có trong thực phẩm, cơ quan tiêu chuẩn hoá quốc
tế và của các quốc gia đã xây dựng những phương pháp phân tích.
-ISO (Internationnal Stadadisation Organisation).
-AFNOR (Association Francaise de Normalisation), của Cộng hoà Pháp.
-DIN (Deutsches Institut pšr Normung), của CHLB Đức.
-BS (British Standard), của Vương quốc Anh.
-ASTM ( American Society fỏ Testing and Materials), của Mỹ.
-TCVN – Tiêu chuẩn Việt nam, của CHXHCN Việt nam.
II. Một số chất phụ gia
2.1. Chất  màu trong thực phẩm.
2.1.1.      Chất màu tự nhiên.
Chất màu tự nhiên chủ yếu thường gặp trong các nguyên liệu thực vật được chia làm
ba nhóm chính:
- Antoxian làm hoa quả có màuđỏ và màu xanh lam.
- Carotinoit có màu vàng.
- Clorofin sắc tố xanh lá cây.
Mức độ bền của chúng rất khác nhau và trong quá trình bảo quản, chế biến nhiệt và các gia công khác sẽ bị thay đổi đi theo những cách khác nhau. Vì vậy lúc ở dạng tươi sản phẩm thường có màu sắc đẹp, sau khi chế biến màu sắc bị kém đi một phần hoặc có khi mất hẳn.Điều đó làm cho giá trị mặt hàng và giá tri sử dụng giảm đi và vẻ hấp dẫn bên ngoài của thức ăn sẽ bị ké.
Trong công nghiệp thực phẩm cần phải tìm ra các biện pháp giữ cho thực phẩm có màu sắc  đẹp.  Điều này có thể đạt được bằng những cách sau:
o   Xây dựng một quy trình kỹ thuật gia công nguyên liệu và bán thành phẩm để bảo
o   quản được tối đa các mầu tự nhiên có sẵn trong nguyên liệu.
o   Tách ra, cô đặc và bảo quản các chất màu từ chính thực vật hoặc từ nguyên liệu khác giàu chất màu, các chất màu tự nhiên cô đặc có thể dùng cho các sản phẩm khác nhau.
o   Tạo nên các chất màu tổng hợp nhân tạo giống như các màu tự nhiên của sản phẩm thực phẩm và dùng nó để nhuộm các sản phẩm màở dạng tự nhiên nó không đủ mạnh hoặc bị mất màu ban đầu do quá trình chế biến.
o   Phối hợp sử dụng các phương pháp kể trên theo những biện pháp khác nhau.
o   Những biến đổi màu sản phẩm là do hàng loạt quá trình hoá học xảy ra trong quá trình chế biến gây nên. Đối với mỗi nhóm chất màu, phải có những biện pháp khác nhau để bảo vệ màu tự nhiên của sản phẩm.
Clorofin - Có màu xanh lá cây.
Clorofin có hai dạng: clorofin a C55H72O5N4Mg và clorofin b C55H70O6N4Mg. Tỷ lệ của chúng trong thực vật khoảng chừng 3:1. Đã biết clorofin trong quá trình đun trong môi trường axit sẽ chuyển thành một hợp chất hoá học mới – feofitin có màu sẫm ô liu. Để tránh sự biến màu của clorofin trong quá trình chế biến người ta sử dụng dạng khác của chúng là dung dịch clorofilin: Màu này thu được từ lá rau dền, lá gai và các loại rau xanh khác, bằng cách cô đặc nước chần của lá rau dền hay lá gai với dung dịch kiềm đậm đặc (3kg NaOH cho 100 kg lá tươi) trong thời gian 2 – 3 giờ. Trong thời gian nấu, clorofin chuyển thành clorofilin ( theo hai dạng của clorofin là clorofin a và clorofin b). Sau khi nấu đem ép và lọc, dung dịch thu được chứa clorofilin. Các clorofilin bền mầu hơn.
Liều dùng 15 mg/kg khối lượng cơ thể.
Antoxian Có màu đỏ và màu xanh lam.
Các sắc tố antoxian hay là antoxianin là những hợp chất hoá học thuộc nhóm glucozit. Trong tự nhiên có nhiều hợp chất loại này và chúng có ở rau quả với số lượng và tỷ lệ khác nhau trong rau quả, hoa và các bộ phận khác của thực vật làm cho chúng có nhiều màu sắc khác nhau.
Có bốn loại antoxian là: pelacgonidin, xianidin, denfinidin và apigenidin. Các màu đỏ, xanh lam và các màu khác tương tự khác của rau quả là các este metyl của các antoxianidin này. Các sắc tố của antoxian này rất nhạy cảm với phản ứng của môi trường.
Liều dùng 0,1 mg/kg khối lượng cơ thể.
Curcumin: có màu vàng da cam.
Người ta thu được chất này từ củ nghệ và có thể đạt được nồng độ 99% . Curcumin được dùng trong sản xuất bột cary, mù tạt, nước dùng, bột canh rau, các sản phẩm sữa với liều dùng 0,1 mg/kg khối lượng cơ thể.
Riboflavin ( lactoflavin ) hoặc vitamin B2:có màu vàng da cam.
 Người ta thu được chất này từ nấm men, mầm lúa mì, trứng và gan động vật. Riboflavin được dùng trong sản xuất các sản phẩm sữa, kem, làm bánh ngọt, mứt keo với liều dùng 0,5 mg/kg khối lượng cơ thể.
Axit cacminic : có màu đỏ tươi.
 Người ta thu được chất này từ trứng và con non của một loại côn trùng rệp đỏ đã sấy khô. Chế phẩm có chứa 10 – 15% axit cacminic. Axit cacminic được dùng cho các sản phẩm khai vị, thịt chín, các sản phẩm sữa với liều dùng 2,5 mg/kg khối lượng cơ thể.
Caramel: Có màu nâu đen.
Người ta thu được chất này bằng cách nấu đường sấy sacaroza ở nhiệt độ cao. Caramel được dùng cho các sản phẩm dấm, rượu vang, bia, rượu táo, thịt, cá, đậu phụ.
Liều dùng 100 mg/kg khối lượng cơ thể.
Poliphenol đã bị oxy hoá: Có màu nâu đậm.  
Người ta thu được chất này từ chè đen. Chất màu này là một hỗn hợp nhiều chất, trong đó chủ yếu là teaflavil (TF) và tearubigin (TR), tỷ lệ TF/TR < 1/12. Chất màu này được dùng cho nhiều sản phẩm như nước uống, thịt, cá, bánh, kẹo. Liều dùng không  hạn chế tuỳ thuộc vào màu sắc của sản phẩm mà người ta điều chỉnh hàm lượng cho phù hợp.
Tínhđộc hại: Tất cả các chất mầu tự nhiên đều không độc hại.

2.1.2.      Các chất màu nhân tạo ( hay tổng hợp ):
Các chất màu nhân tạo được sử dụng trong phạm vi tương đối hẹp, thường sử dụng trong sản xuất bánh kẹo và sản xuất các thứ nước uống không có rượu. Sản xuất đồ hộp chủ yếu là đồ hộp rau quả, nhiều trường hợp các cơ quan bảo vệ sức khoẻ cấm dùng vào trong thực phẩm các chất màu hữu cơ nhân tạo vì chưa biết hết được tác dụng phức tạp của nó đối với cơ thể người.
Cho phép nhuộm màu thực phẩm bằng các chất màu tổng hợp như:
o   Nhóm chất màu vàng.
Tatrazin ( là dẫn xuất của axit pyrazol cacboxylic, có màu vàng chanh), Quinolein vàng ( là muối Natri của axit Monosulphonic và Disulphonic của Quinophtalin và quinolyindanedion), vàng da cam S (là muối Na của axit Naphtol- sulphonic, có màu vàng da cam).Được dùng trong sản xuất bánh kẹo, thực phẩm tráng miệng, mứt, rượu, trứng cá muối, tôm, vỏ ngoài phomat, vỏ ngoài thịt chín.
o   Nhóm chất màu đỏ.
Azorubin: là muối Na của axit Naphtol- sulphonic, có màu đỏ. Chất màu này còn được sử dụng trong công nghiệp nhuộm và in. Được dùng trong sản xuất mứt kẹo, sirô, nước giải khát. 
Liều dùng 0,5 mg/kg khối lượng cơ thể.
Amaran: là muối có 3 nguyên tử Na của axit Naphtol- disulphonic, có màu đỏ boóc đô.
Được dùng trong sản xuất trứng cá muối, nước quả, rượu nho.
Liều dùng 0,75 mg/kg khối lượng cơ thể.
Đỏ rệp: là muối có 3 nguyên tử Na của axit Naphtol- disulphonic, có màu đỏ giống như màu đỏ của axit cacminic (Chất màu tự nhiên ), được dùng trong sản xuất bánh kẹo, thực phẩm.
Liều dùng 0,75 mg/kg khối lượng cơ thể.
Erytrozin: là muối của têtra-iodo-fluoresxin, có màu đỏ, được dùng trong sản xuất bánh kẹo, thực phẩm tráng miệng, mứt, rượu, trứng cá muối, tôm, vỏ ngoài phomat, vỏ ngoài thịt chín.
Liều dùng 2,5 mg/kg khối lượng cơ thể.
o   Nhóm chất màu xanh.
Mầu xanh lơ V: là muối canxi của dẫn xuất triphenylmetan, có màu xanh nhạt, được dùng trong sản xuất bánh kẹo, thực phẩm tráng miệng, mứt, rượu, trứng cá muối, tôm, vỏ ngoài phomat, vỏ ngoài thịt chín
Liều dùng 2,5 mg/kg khối lượng cơ thể.
Indigocacmin: là muối Na của axit indigotin disunphonic, có màu xanh lam,được dùng trong sản xuất kem, bánh kẹo, mứt, quả ngâm đường.
Liều dùng 5,0 mg/kg khối lượng cơ thể.
Xanh lơ sáng FCF: có công thức C37H34N2Na2O9S3là chất có mầu xanh lơ sáng, được phép dùng ở Canada, Anh và Mỹ cho các sản phẩm báng kẹo, confitur, sirô, đồ hộp.
Xanh lục sáng BS: là muối Natri của dãn xuất Fusinic, có màu  xanh lục sáng, thường
được dùng vớihỗn hợp các màu xanh khác để tạomàu xanh lục, được dùng trong sản xuất quả ngâm đường, sirô, nước giải khát, bánh kẹo, rượu.
Liều dùng 5,0 mg/kg khối lượng cơ thể.
o   Nhóm chất màu đen.
Màu đen sáng BN: là muối có 4 Na của axit tetrasulphonic, có màu đen sáng, được dùng trong sản xuất bánh kẹo, thực phẩm tráng miệng, mứt, rượu, trứng cá muối, tôm, vỏ ngoài phomat, vỏ ngoài thịt chín.
Liều dùng 1,0 mg/kg khối lượng cơ thể

Tính độc hại: tất cả các chất mầu tổng hợp đều độc đối với con người nên khi sử dụng phải tuân theo sự chỉ dẫn trong tài liệu kỹ thuật.
Share on Google Plus

About Unknown

This is a short description in the author block about the author. You edit it by entering text in the "Biographical Info" field in the user admin panel.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét