PHỞ VIỆT NAM/ PHẦN 2


4.2. 
Cách chế biến nước dùng
Thành phần chính của phở là bánh phở và nước dùng (hay nước lèo theo cách gọi miền Nam) cùng với thịt  hoặc  cắt lát mỏng. Ngoài ra còn kèm theo các gia vị như: tương, tiêuchanhnước mắmớt... Những gia vị này được thêm vào tùy theo khẩu vị của từng người dùng. Phở thông thường dùng làm món ăn điểm tâm, hoặc ăn tối. Ở các tỉnh phía Nam Việt Nam, phở được bày biện với những thành phần phụ gọi là rau thơm như hànhgiá và những lá cây rau mùi, rau húng, trong đó ngò gai là loại lá đặc trưng của phở. Phở thường là phở bò, nhưng cũng có phở gà, phở heo, phở tôm ...
Nước dùng nói chung được làm bằng việc hầm xương bò, thịt dùng cho món phở là thịt  hoặc  và gia vị bao gồm quếhồigừngthảo quảđinh hươnghạt mùi... "Bánh phở", theo truyền thống, được làm từ bột gạo, tráng thành tấm mỏng rồi cắt thành sợi.Hương vị thơm ngon của nước dùng chủ yếu do các loại gia vị quyết định. Tuy nhiên, công thức của từng loại nước dùng cụ thể cho từng hiệu phở được giữ khá bí mật. Mặc dù vậy, có thể nhận thấy các loại gia vị này bao gồm thảo quảgừnghoa hồiđinh hương, hạt ngò gai, thanh quếhành khô, tômnõn, sá sùng và theo truyền thống, không thể thiếu một cái đuôi bò.
Lúc trước, để tăng vị ngọt của nước phở, theo truyền thống người xưa dùng tôm he và sá sùng khô. Cách nấu nước dùng ngày nay đã có những sự khác biệt tùy địa phương, như miền Bắc thường dùng nhiều mì chính, còn miền Nam nhiều nơi nấu nước dùng bằng xương  và thêm con khô mực.
Phở ở Hà Nội ( Phở miền Bắc)
Ở Hà Nội, phở là một món ăn đặc biệt của người Hà Nội không biết đã có từ bao giờ. Phở được dùng riêng như là một món quà sáng hoặc trưa và tối, không ăn cùng các món ăn khác. Nước dùng của phở được làm từ nước ninh của xương bò: xương cụcxương ống và xương vè. Thịt dùng cho món phở có thể là , hoặc Bánh phở phải mỏng và dai mềm, gia vị của phở là hành láhạt tiêugiấm ớt, lát chanh thái. Phở luôn phải ăn nóng mới ngon, tuy nhiên, để có được những bát phở ngon còn tùy thuộc vào kinh nghiệmvà bí quyếttruyền thống của nghề nấu phở.
Nguyên liệu: Xương bò hoặc xương heo, thịt bò hoặc gân bò, sách bò, hoặc gà, gừng, lá gừng, thảo quả, đinh hương, củ cải trắng, hạt ngò, quế, tinh dầu cà cuống, ít sá sùng ( sâu đất, sâm đất), rau ghém, bánh phở, hành.
Nước dùng của phở truyền thống là phải được ninh từ xương ống của  cùng với một số gia vị. Xương phải được rửa sạch, cạo sạch hết thịt bám vào xương cho vào nồi đun với nước lạnh. Nước luộc xương lần đầu phải đổ đi để nước dùng khỏi bị nhiễm mùi hôi của xương bò, nước luộc lần sau mới dùng làm nước lèo. Gừng và củ hành đã nướng đồng thời cũng được cho vào. Lửa đun được bật lớn để nước sôi lên, khi nước đã sôi thì phải giảm bớt lửa và bắt đầu vớt bọt. Khi đã vớt hết bọt, cho thêm một ít nước lạnh và lại đợi nước tiếp tục sôi tiếp để vớt bọt... Cứ làm như vậy liên tục cho đến khi nước trong và không còn cặn trong bọt nữa. Sau đó, cho một ít gia vị vào và điều chỉnh độ lửa sao cho nồi nước chỉ sôi lăn tăn để giữ cho nước khỏi bị đục và chất ngọt từ xương có đủ thời gian để tan vào nước lèo.
Tuyệt đối không nêm nước mắm vào nồi phở sẽ làm cho xúp có vị chua và đen nồi phở mất ngon, gia vị chính để tạo vị ngọt ở miền Bắc là mì chính thay vì đường nên thông thường thì phở miền Bắc đặc trưng bởi vị mặn. Khi nào ăn thì múc xúp ra riêng cái tô, ai muốn ăn nước mắm thì cho vào nêm riêng. Sau đó mới chan xúp nêm xong lên trên mặt tô phở đã trình bày xong. Củ cải trắng làm cho nước lèo ngọt và công dụng hút hết chất đen để làm cho nồi phở trong.
Do là thức quà bình dân có một thời phở bị những người giàu tiền lắm bạc ở Hà Nội xem thường. Phải đến năm 1918 - 1919, phở mới được nhiều giới tìm đến. Cửa hiệu phở đầu tiên của Hà Nội mở ở phố Hàng Quạt (nay là Lương Văn Can) gần rạp tuồng Thông Sáng và tuồng Năm Trăn để đón khách. Năm 1937, duy nhất có một hiệu phở của Hoa kiều mở ở phố Mã Vũ (nay là phố Hàng Quạt kéo dài) lấy tên là Nghi Xuân. Các cửa hàng này đua nhau cải tiến chất lượng. Lúc đầu chỉ có phở chín, sau có phở tái. Thêm thịt mỡ gầu, nạm, sách bò nên thành tên tái gầu, tái nạm, tái sách... Sau nữa có hiệu dùng thịt bò nấu sốt vang, thịt áp chảo nên lại thêm tên gọi phở sốt vang, phở áp chảo nước, áp chảo khô, phở xào, v.v...Từ những năm 1930 lại đây, phở đã tới đỉnh cao của văn hóa ẩm thực Việt Nam với nghệ thuật lóc thịt, hầm xương và gia giảm gia vị: thảo quả, quế chi... thành món đặc sản của đất Hà Thành: "phở Hà Nội".
Gắn bó với lịch sử của Hà Nội có những thương hiệu ẩm thực cũng như giải trí-giải khát lưu truyền qua nhiều đời. Về cà phê, những người sành thưởng thức hượng vị Hà Nội có thể nhớ đến cà phê Lâm nơi còn lưu trữ nhiều bản gốc tranh của các họa sĩ nổi tiếng, cà phê Giảng nhỏ bé nép mình bên góc phố Hàng Gai, cà phê sinh viên trên gác 2 nhìn ra hồ Gươm. Phở cũng thế. Những hiệu phở ở Hà Nội đã lưu truyền 3 đời như: phở Phú Xuân ở phố Hàng Da vốn là những người gốc làng Phú Gia, Phú ThượngTây HồHà Nội; phở Bắc Nam ở phố Hai Bà Trưng; phở Gà Nam Ngư, phở mậu dịch xếp hàng...
Phở Nam Định ( Phở miền Bắc)
Phở bò Nam Định Là một món ăn phổ biến của Nam Định, phở Nam Định cũng có những đặc điểm chung như phở của các vùng khác là gồm bánh phở, nước phở, thịt bò hoặc thịt gà, và một số gia vị kèm theo, nhưng lại mang cái khác toàn diện mà khó có thể nhầm lẫn được, bánh phở Nam Định là loại đặc biệt có sợi nhỏ ngon và mềm, khác với sợi bánh của vùng khác. Thịt bò được thái mỏng đập dập, nhúng và vớt trong khoảng thời gian phù hợp nên ăn mềm mà vẫn giữ được độ tươi ngon và dinh dưỡng của thịt... Và nếu nói đến nước thì thường mang tính "gia truyền" những người thợ làm phở thường giấu kín bí quyết pha chế nước phở của mình và chỉ truyền cho thế hệ sau trong gia đình mà thôi.
-   Bí quyết nước dùng ngọt: 
-   Bí quyết khử mùi hôi của xương bò:
-   Bí quyết nước dùng trong
-   Bí quyết nước dùng thơm mùi phở
-   Bí quyết nước dùng thơm mùi phở
-   Bí quyết chọn thịt 
Phở gia truyền ở Nam Định chủ yếu có nguồn gốc từ Hoa kiều ở làng Giao Cùvà từ họ Cồ ở làng Vân Cù, xã Đồng Sơn, (huyện Nam Trực). Sau đó được truyền ra các làng bên cạnh nhưng đã được biến chế, không còn mang nét nguyên vẹn như xưa và thêm một số phụ gia . Vào thập niên 50, người Nam Định đã mang món phở ra Hà Nội và bán theo xe đẩy. Từ giữa những năm 60 đến trước những năm 90 của thế kỷ 20, vì nhiều lý do nhất là khâu quản lý hành chính bao cấp về lương thực, thực phẩm, Phở Nam Định vắng bóng ở những địa phương khác, nhưng từ năm 90 trở lại đây, Phở Nam Định phục hồi trở lại và ngày càng phát triển mạnh. Hiện nay dân làng thuộc làng Vân Cù, Giao Cù và các làng lân cận đi khắp nơi từ Bắc vào Nam mở các quán phở đế kiếm kế sinh nhai và gìn giữ một món ăn ngon ngườì Việt.


Phở Sài Gòn ( Phở miền Nam)




Người Việt Nam ở phía Bắc di cư vào miền Nam năm 1954 mang theo món phở và phở đã bắt đầu có những sự khác biệtTại miền Nam, nhất là tại Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh), thịt bò trong phở thường được bán theo 5 kiểu: chín, tái, nạm, gầu, gân tùy theo ý thích của khách, ngoài ra còn 1 chén nước béo (nước mỡ của xương bò) để riêng nếu khách muốn và tương ngọt (tương đen), tương ớt đỏ. Phở tại miền Nam thường phải bán đi kèm với chanhớt tươi, ngò gaihúng quếgiá (trụng nước sôi hoặc ăn sống), hành tây cắt lát mỏng (có thể ngâm với dấm), đó là những loại rau bắt buộc phải có, thường là để riêng trong một dĩa hay rổ bán kèm theo từng tô phở, khách thích thứ nào thì lấy bỏ vào tô của mình. Sau này, nhiều quán còn thêm vào đĩa rau đó: ngò ôm (rau ngổ), húng Lánghành lá dài, các loại rau thơm khác.... Nước phở (nước lèo) thường không được bỏ mì chính (bột ngọt) như ở Hà Nội và có màu hơi đục, không trong như phở Bắc, đôi khi ngọt hơn, béo hơn và nấu bằng xương gà.
Có khá nhiều quán phở nổi danh ở Sài Gòn trước năm 1975: phở Công Lý, phở Tàu Bay, phở Tàu Thủy, phở Bà Dậu, phở Pasteur, phở Hiền Vương. Hầu hết các quán phở này nay vẫn còn, truyền đến đời cháu nhưng "không còn cái hương mãnh liệt" và "không còn xuân sắc như thuở trước 75". Hiện nay, nổi tiếng có các hệ thống Phở 24, Phở 5 sao, Phở Quyền, Phở 2000, Phở Hòa...
Phở Huế ( Phở miền Trung)
Trong văn hóa ẩm thực, phở Huế không được nói đến nhiều như phở  Hà Nội, phở Nam Định, hay phở Sài Gòn. Bởi có lẽ người Huế yêu món bún bò của bản xứ hơn là món phở di cư. Thế nhưng phở Huế vẫn có được nét riêng của nó. Phở Huế được đựng trong các tô nhỏ và rau thơm dùng kèm cũng ít hơn so với các loại phở ở nơi khác.
Phở trên thế giới
Sau này Phở Sài Gòn theo chân người vượt biên tới MỹÚcCanada. Riêng tại Mỹ, thống kê không chính thức cho biết doanh thu các cửa hàng phở Việt Nam trên toàn nước Mỹ lên tới khoảng 500 triệu USD một năm.
Một bát phở bò tái tại Úc
5. Cơ sở khoa học
5.1. Cân bằng âm dương trong phở :
Trong việc ăn, người Việt Nam đặc biệt chú trọng đến quan hệ biện chứng âm dương, bao gồm ba mặt quan hệ hết sức mật thiết với nhau, đó là: bảo đảm hài hòa âm dương của thức ăn, bảo đảm sự quân bình âm dương trong cơ thể và bảo đảm sự cân bằng âm dương giữa con người với môi trường tự nhiên.
Để bảo đảm hài hòa âm dương của thức ăn, khi chế biến thức ăn, phải tuân thủ nghiêm ngặt luật âm dương bù trừ và chuyển hóa khi kết hợp các loại lương thực, thực phẩm, gia vị với nhau tạo thành các món ăn có sự cân bằng âm – dương, thủy – hỏa. Chỉ trong một bát phở ta thấy có đủ sự tổng hợp của mọi chất liệu, mùi, vị, màu sắc. Nó vừa có cái mềm của thịt bò tái hồng, cái dẻo của bánh phở trắng, cái cay dìu dịu của lát gừng vàng, hạt tiêu đen, cái cay xuýt xoa của ớt đỏ, cái thơm nhè nhẹ của hành hoa thơm nhạt, cái thơm hăng hắc của rau thơm xanh đậm, vị chua thanh của chanh và hòa hợp tất cả lại là nước phở dùng được nấu từ xương…
Bảo đảm sự quân bình âm dương trong cơ thể. Người Việt Nam sử dụng thức ăn như là các vị thuốc để trị bệnh. Theo quan niệm của người Việt Nam thì mọi bệnh tật sinh ra là do cơ thể bị mất quân bình âm dương, thức ăn chính là vị thuốc để điều chỉnh sự mất quân bình âm dương ấy, giúp cơ thể khỏi bệnh. Chỉ trong một bát phở, nếu người bệnh ốm do quá âm thì đã có gừng là loại thực phẩm dương, ngược lại nếu người bệnh ốm do quá dương thì đã có các loại rau là loại thực phẩm mang tính âm.
Bảo đảm sự quân bình âm dương giữa con người và môi trường. Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa nên có khí hậu nóng ( nhiệt - hành hỏa), vì vậy , phở là loại thức ăn có nước (âm – hành Thủy), có vị chua (âm) thì vừa dễ ăn, vừa dễ tiêu hóa, vừa giải nhiệt.
5.2. Cân bằng dinh dưỡng trong phở:
Nguyên liệu để làm nên một tô phở cần có :
-         100g bánh phở tươi
-         50g thịt nạm
-         25g thịt bò nạc
-         Nước lèo
-         Gia vị ( ít ảnh hưởng đến dinh dưỡng trong phở )
Nước lèo :
-         Tỷ lệ thay đổi tùy theo cách pha chế
-         Lượng chất béo khá cao
-         Lượng cholesterol 100 – 150 mg

Thành phần dinh dưỡng của 100g bánh phở
Năng lượng
141 Kcal
Protein
3,2 g
Carbohydrates
32,1 g
Canxi
16 mg
Phốt pho
64 mg
Sắt
0,3 mg

Thành phần dinh dưỡng của 100g thịt bò
Loại thịt
Calories (g)
Lipid (g)
Protein (g)
Cholesterol (mg)
Nạc
180
8,2
32,1
84
Chín
220
12,5
35,5
97
Gầu
350
24,7
17,3
150
Nạm
280
22,1
20,2
187
Sách
45
2
19,1
112


Vậy , trong một tô phở sẽ cung cấp :
-         Năng lượng : 140 - 150 Kcal
-         Chất đạm : 30 – 50g
-         Tinh bột :   30 – 40g
-         Chất béo : Tái trần : 14g , 100 – 120mg Cholesterol
      Tái Nạm : 30g , 140 – 150mg Cholesterol
      Tái gầu : 33g , 180 – 200mg Cholesterol
Với thành phần dinh dưỡng như trên , Phở là một món ăn tốt , giàu chất dinh dưỡng . Tuy nhiên , đối với người lớn tuổi cần hạn chế ăn chất béo ( Tái gầu , nước béo ) để bảo vệ tim mạch .
Văn hóa ăn phở
Những quán phở Việt Nam vẫn giữ những thói quen là ít khi mang thực đơn cho khách hàng mà khách sẽ phải tự chọn loại phở gì (ví dụ: phở bò, phở gà...). Phở được đựng trong tô hoặc bát lớn. Thông thường thì những bàn ăn được đánh số để phục vụ, trên đó có sẵn đũamuỗng (thìa) và những gia vị kèm theo phở như: tương, chanh, nước mắm, ớt... Trước khi ăn người ta dùng khăn ăn lau chùi đũa, muỗng sắp sửa được sử dụng. Ăn phở thì thường uống nước trà đá và ít khi uống nước ngọt hay các chất có cồn khác.

Phở không những là một món ăn truyền thống hấp dẫn, quen thuộc của Việt Nam mà nó đã trở thành một trong những biểu tượng về văn hóa ẩm thực của Việt Nam được cả thế giới biết đến. Khi thưởng thức tô phở bò, người ta có thể tìm hiểu nghệ thuật lẫn triết lý ẩm thực của người Việt Nam. Tô phở thể hiện quan điểm người Việt Nam ăn bằng cả ngũ quan: tay bưng tô phở nóng hổi, mũi ngửi hương thơm ngào ngạt, mắt nhìn từng nguyên liệu đủ màu sắc, lưỡi nếm vị đậm đà và tai nghe tiếng húp nước xì xụp sao ngon đến lạ thường.
Share on Google Plus

About Unknown

This is a short description in the author block about the author. You edit it by entering text in the "Biographical Info" field in the user admin panel.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét