1. Nguồn Gốc
Một số giả thuyết cho rằng phở
xuất hiện đầu tiên ở Nam
Định, nhưng Hà
Nội lại là nơi làm cho món ăn dân dã này trở nên nổi tiếng
như ngày nay; một số giả thuyết khác nhìn nhận phở như một đặc trưng ẩm thực Hà
Thành, có lịch sử từ cuộc giao duyên Việt-Pháp đầu thế
kỷ 20.
Phở bắt nguồn
từ miền
Bắc Việt Nam, xâm nhập vào miền
Trung và miền
Nam giữa thập
niên 1950. Người Việt Nam ở phía bắc di
cư vào miền Nam năm 1954 mang theo món phở và phở đã bắt đầu
có những sự khác
biệt.
Từ lúc này,
những ý kiến trái ngược nhau về nguồn gốc của phở đã xuất hiện. Một vài trong số
đó đưa ra luận điểm rằng phở bắt nguồn từ phương pháp chế biến món thịt hầm của
Pháp (pot-au-feu, đọc như "pô tô phơ"). Sự có mặt của Pháp ở Việt Nam có lẽ củng
cố luận điểm này, nhưng việc phở có nhiều gia vị và rau mùi nguồn gốc
từ châu
Á, đặc biệt là Việt Nam, đã bác bỏ chúng. Số khác lại cho rằng phở ảnh
hưởng từ Trung
Hoa vì dựa vào mặt địa
lý, hơn nữa phương pháp sử dụng bột gạo làm bánh phở và nhiều gia vị
trong phở khá giống món hoành
thánh của Trung Hoa, nhưng không chứng minh được. Vì thế,
nguồn gốc của phở từ Việt Nam có lẽ là ý kiến được nhiều người chấp
nhận.
Sự xuất ngoại
để tị
nạn của những người Việt Nam trong thời kỳ
hậu Chiến
tranh Việt Nam đã làm cho phở được biết đến ở nhiều nơi trên
thế giới, đặc biệt là các nước phương Tây. Đã có nhiều nhà hàng phở
ở Mỹ, Pháp, Úc và Canada.
Những người Việt Nam không thuộc diện tị nạn chính trị cũng mang phở đến những
nước thuộc khối Xô
Viết, bao gồm Nga, Ba
Lan và Cộng
hòa
Séc.
Ngày nay, phở đã
có những phương pháp chế biến và hương vị khác nhau. Tại Việt Nam, có những tên
gọi để phân biệt chúng là: Phở Bắc (ở miền Bắc), phở
Huế (ở miền Trung) và phở
Sài Gòn (ở miền Nam). Thông thường thì phở miền Bắc đặc
trưng bởi vị mặn nước phở thì trong còn miền Nam thì ngọt nước đục hơn và béo.
Bánh phở ở miền Nam nhỏ hơn ở miền
Bắc.
Trước đây, chỉ
có phở bò chín với đầy đủ chín, bắp, nạm, gầu. Về sau, còn xuất hiện
thêm phở
tái, phở
gà, phở tôm, phở heo.... Ngoài ra còn một số món ẩm thực từ nguyên liệu
bánh phở truyền thống như phở
cuốn, (loại phở xuất hiện vào thập
niên 1970 là) phở
xào, (của thập
niên 1980 là) phở
rán... đến nay, nền công nghiệp phát triển nên xuất hiện thêm phở ăn liền
hay còn gọi là phở công
nghiệp.
2. Các loại
phở.
Ngoài những kiểu
chế biến truyền thống, ngày nay người ta còn tạo ra nhiều loại phở trong công
nghiệp đóng gói như phở ăn liền, phở chay, phở công nghiệp, phở cuốn, phở áp
chảo...
2.1. Theo địa
lý.
- Phở ở Hà Nội ( Phở miền
Bắc)
- Phở Nam Định ( Phở miền
Bắc)
- Phở Sài Gòn ( Phở miền
Nam)
- Phở Huế ( Phở miền
Trung)
Đó là những khu vực có phở
ngon nổi tiếng. ngoài ra, khi di đến bất kì nơi đâu ở đất nước
Việt Nam này
ta cũng có thể bắt gặp những quán
phở.
2.2. Theo phương thức chế
biến.

Từng lá bánh phở mỏng như lá bánh
cuốn, to bằng bánh đa nem được để cẩn thận lên khay sạch sẽ. Sau đó lấy thịt bò
xào, rau thơm, rau xà lách đặt lên lá bánh rồi cuộn lại trông hệt chiếc nem. Khi
ăn chấm nước mắm pha chua chua ngọt ngọt và vài lát dưa góp đu
đủ.

Cũng với những
lá bánh mỏng đó, nhưng không to như bánh đa nem mà được gấp hình vuông rồi cho
vào chảo dầu chiên đang sôi để bánh phồng lên và vàng rộm là được. Loại này được
ăn kèm với thịt bò xào rau
cải.
Phở
rán
Là thứ bánh phở
sợi bình thường, được gỡ rối ra rồi cho vào chảo rán, sau đó đập mỏng như hình
một chiếc bánh gạo tròn to, ăn vừa thấy giòn, vừa thấy mềm, thơm vị bột gạo mà
không hề bị ngấy và phở rán thường được ăn kèm với lòng
xào.



Đây
là một dạng phở mới được hình thành do nhu cầu của người dùng. Bánh phở xào có
thể là bánh khô hay tươi được xào chung với nhiều loại rau như: xúp lơ, rau cần,
rau cải,… và thịt bò. Tùy theo nhu cầu và cách chế biến mà ta có những loại phở
xào khác
nhau.
Phở công
nghiệp
Là
các loại phở gói được các công ty sản xuất nhằm đáp ung nhu cầu của khách hàng.
Loại phở này có thể bảo quản lâu hơn và tiện dụng
hơn.
3. Văn hóa phở
Việt.
“Nước dùng đậm vì muối nồng biển
Mẹ
Nước dùng trong vì ngọt nước sông
Cha
Bánh sợi dẻo vì gạo đồng lúa
Việt
Bò thơm hơn vì
bò cỏ quê
nhà
…..”
(nhà thơ Vũ
Kiện)
Gói gọn trong
bốn câu thơ, nhưng tác giả thể hiện tất cả những nguyên vật liệu làm nên món
phở, với hình ảnh so sánh mộc mạc, gần gũi. Để rồi ta có thể thấy rõ hơn cái hồn
của dân tộc, cái quí giá của thiên nhiên ban
tặng.
Nước ta là một
nước nông nghiệp, nên các món ăn phong phú, đa dạng và đều từ nguyên liệu do
chính chúng ta trồng trọt ra. Và phở là một ví dụ điển hình nhất, một tô phở mà
thấy cả biển rộng, sông sâu, có lẽ như tác giả muốn nhắc khéo chúng ta phở là
một niềm tự hào văn hóa dân tộc. Chính phở là món ăn được chọn làm đại diện ẩm
thực Việt Nam tham dự hội chợ Mac-xay tại Pháp nhằm giới thiệu và vinh danh cho
toàn xứ Đông Dương. Và phở cũng trở thành chủ đề “cuộc thi bàn tay vàng nấu
phở”trong dịp lễ hội kỷ niệm 990 năm Thăng Long ở Hà Nội. phở trở nên quen thuộc
với mọi người từ khi nào không biết để rồi trong nhân gian nhân cách hóa phở
thành cô “bồ nhí”. Cũng có lẽ bởi phở kề cận với đời sống Việt mọi lúc mọi nơi,
chỉ đứng sau cơm theo đúng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Chả thế mà bảng hiệu
“cơm – phở” nhan nhản khắp đó đây trên mọi nẻo đường. Giới mày râu thường hay ví
von: Cơm như “bà vợ” hiền hậu, trung thành tận tụy, còn Phở là “cô bồ trẻ” õng
ẹo, luôn mới lạ và đầy hương vị hấp dẫn. “Thuỷ chung với cơm, sắt son cùng phở”
hay “Sáng chở Cơm đi ăn phở, tối chở Phở đi ăn
cơm".
Không những thế
phở còn đi vào tầm ngắm của các nhà làm phim để cho ra đời bộ phim truyền hình
dài tập” Mùi ngò gai”, rồi phải kể đến khi cựu tổng thống Mỹ Cilinton sang thăm
Việt Nam ông đã chọn phở làm món ăn điểm tâm. Cho thấy được phở không chỉ là món
ăn tầm thường, xa xỉn mà đây là tinh hoa, một truyền
thống.
“Gánh giang sơn gồng bằng đôi gánh
phở
Quẩy
lên đường nghi ngút ấm tình
thân
Đường Nam Bắc vượt bằng tô xe
lửa
Dù
bà con xa cũng hóa thành
gần.”
Mặc dù cuộc đời
con người ta có những thăng trầm, những gian lao khốn khó đã đem ít nhiều phiền
lụy cho cuộc sống,
nhưng phở vẫn không xa rời trong tâm hồn của người Việt Nam. Một sự gắn liền có
ý thức, tình tự dân tộc khó quên.Và hãy quên đi những ngày tháng muộn phiền,
cùng cởi mở tâm tình quanh bát phở để được nhận diện tầm vóc của quê
hương.
4.
Nguyên liệu và cách chế
biến nước dùng.4.1. nguyên liệu.
- Bánh phở
tươi
- Thịt
nạm
- Thịt bò
nạc
- Xương
ống,…
- Nước
lèo
- Gia vị (tương, tiêu, chanh, nước
mắm, ớt... )
- Rau thơm (giá, cần tây, ngò
gai,…)
- …
Tùy theo mỗi vùng, miền mà ta có nguyên liệu
khác nhau.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét