CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT ĐƯỜNG/ PHẦN 4






Trang blog này được lập bởi chủ Quán BỌT TRÁI CÂY với mục đích chia sẻ tài liệu về công nghệ thực phẩm cho các bạn cùng khoa cũng như các anh, chị, em và các bạn yêu thích, quan tâm hay tìm kiếm tài liệu về công nghệ thực phẩm.

NẾU THẤY TÀI LIỆU CÓ ÍCH, MỜI CÁC BẠN ĐẾN VÀ ỦNG HỘ QUÁN BỌT TRÁI CÂY ĐỂ CHÚNG TÔI CÓ THÊM KINH PHÍ DUY TRÌ HOẠT ĐỘNG ĐĂNG TẢI TÀI LIỆU CHO MỌI NGƯỜI!

XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN!

Quán Bọt Trái Cây
Địa chỉ: 88/955E Lê Đức Thọ, P.6, Gò Vấp, TP.HCM
Hotline: 0935.355.169






3. Động học của quá trình kết tinh đường
Saccarose là chất rất khó xuất hiện nhân tinh thể trong dung dịch quá bão hoà của nó. Theo thực nghiệm, tinh thể chỉ xuất hiện khi a > 1,3 -1,4. Để tăng tốc độ xuất hiện tinh thể, người ta áp dụng các biện pháp kích thích tạo mầm hay phương pháp tinh chủng, lúc đó tinh thể sẽ xuất hiện ở giá trị a = 1,2 – 1,25.
Theo quan điểm động học, quá trình xuất hiện nhân tinh thể trong môi trường lỏng là hiện tượng liên hợp của các phân tử chất hoà tan di động. Điều kiện cần thiết để tạo nhân tinh thể là có sự tập tụ cục bộ của các phân tử chất hoà tan và phân bố các phân tử này vào vị trí của chúng trong lưới tinh thể. Vậy, các tinh thể nằm trên ranh giới của 2 quá trình kết tinh và hoà tan.
Theo Silin: Trên bề mặt tinh thể và dung dịch luôn xảy ra hai quá trình:
      - Lắng chất hoà tan trên bề mặt tinh thể vào dung dịch, khi đó các phân tử hay các nhóm phân tử tách ra khỏi bề mặt tinh thể, nếu điều kiện quá bão hoà đủ lớn những nhóm phân tử này sẽ là những nhân tinh thể mới.
      - Nếu điều kiện quá bão hoà chưa đủ lớn thì những mầm sẽ hoà tan vào dung dịch (do độ hoà tan của nó lớn hơn đường bình thường rất nhiều). Lúc này chỉ những tinh thể sẵn có lớn lên mà thôi, không xuất hiện mầm tinh thể mới.



- Tinh thể được bao quanh bởi một lớp dung dịch không chuyển động với chiều dày d.
- Ngay trên bề mặt tinh thể là dung dịch quá bão hoà với nồng độ C’, cách bề mặt tinh thể một khoảng d là dung dịch quá bão hoà với nồng độ C. Do sự chênh lệch nồng độ, các phân tử đường sẽ khuếch tán đến bề mặt tinh thể thì lập tức kết tinh thành tinh thể mới, và ở bề mặt tinh thể mới này lại có nồng độ C’ như cũ. Như thế, quá trình kết tinh lại được thực hiện tiếp tục.
Qua đó, ta nhận thấy tốc độ kết tinh chính là tốc độ khuếch tán. Theo định luật Fick: lượng đường khuếch tán S tỷ lệ thuận với hiệu số nồng độ (C – C’), bề mặt khuếch tán F, thời gian kết tinh t, và tỷ lệ nghịch với đoạn đường khuếch tán d.




6. Các yếu tố ảnh hưởng đến tốc độ kết tinh
- Độ quá bão hoà dư
- Nhiệt độ
- Độ tinh khiết của dung dịch
- Độ nhớt
- Sự khuấy trộn
- Kích thước tinh thể
- Số lượng tinh thể trong đường non

II. QUÁ TRÌNH HOÁ HỌC CỦA GIAI ĐOẠN NẤU ĐƯỜNG
Sau khi được tạo thành tinh thể đường saccarose rất bền, hầu như chúng không có sự biến đổi cấu trúc cũng chư các biến đổi đặc biệt khác khi nhiệt độ dưới 70oC. Tuy nhiên lớp mật bao quanh tinh thể không bền, do đó đường non không bền. Sự thay đổi của đường non trong quá trình kết tinh chủ yếu phụ thuộc vào thành phần mật cái.
1. Sự phân giải đường
Trong giai đoạn nấu đường xảy ra quá trình chuyển hoá đường saccarose thành đường khử, sự chuyển hoá này phụ thuộc vào nhiệt độ nấu đường và pH đường non.
Dưới tác dụng của nhiệt độ, đường khử sẽ phản ứng với các axit amin tạo thành những hợp chất màu, ngoài ra đường khử bị phân huỷ thành các sản phẩm không lên men.
2. Tách cặn lắng đọng muối phi đường
Trong quá trình kết tinh một số axit hữu cơ chuyển thành hợp chất không tan và kết tủa dưới dạng muối canxi, muối magiê.
Các chất khác (như: tinh bột. pectin...) có khả năng kết tinh cùng đường saccarose và liên kết bền trong tinh thể đường.
3. Hiện tượng khó nấu
Khi nấu một số mẻ đường có xuất hiện hiện tượng như: đường non đặc cứng lại trong nồi, bốc hơi chậm, không kết tinh được... Hiện tượng này thường xảy ra khi mật chè chứa lượng muối canxi cao, ngoài ra khi dung dịch có pH cao thì quá trình nấu đường chậm (vì một phần đường ở dạng sacarat).
Khi mía nguyên liệu còn non, chất keo nhiều, độ nhớt lớn thì quá trình nấu đường cũng gặp khó khăn, đặc biệt là khi nấu các loại đường có chất lượng thấp.

III. QUÁ TRÌNH NẤU ĐƯỜNG GIÁN ĐOẠN
1. Cô đặc đầu
Là quá trình cô đặc dung dịch đến nồng độ cần thiết để chuẩn bị cho sự tạo thành tinh thể. Tuỳ theo phương pháp gây mầm mà ta khống chế dung dịch ở các nồng độ khác nhau. Trong giai đoạn này ta cô đặc ở độ chân không thấp (khoảng 600 – 620mmHg) để giảm nhiệt độ sôi dung dịch (với áp suất này nhiệt độ sôi của dung dịch khoảng 60 – 65oC) , và giảm sự phân huỷ đường.
Mật chè cần phải được phủ kín tại bề mặt truyền nhiệt (của nồi nấu) để tránh hiện tượng cháy đường.
2. Sự tạo mầm tinh thể
Đây là thời điểm quan trọng của quá trình nấu đường, tuỳ theo phương pháp tạo mầm mà ta khống chế thời điểm tạo mầm khác nhau. Thông thường ở thiết bị nấu không có dụng cụ xác định trực tiếp độ quá bão hoà và cũng không có số liệu về độ hoà tan của đường không tinh khiết. Vì vậy việc xác định độ quá bão hoà thông qua việc xác định các thông số: nồng độ nguyên liệu gốc (được xác định bằng chiết quang kế), độ dẫn điện, nhiệt độ... hoặc dựa vào kinh nghiệm công nhân vận hành. Sự tạo mầm có thể chia làm 3 phương pháp:
a. Tạo mầm tự nhiên
Nấu dung dịch đường đến hệ số quá bão hoà a = 1,4 trở lên, lúc này các tinh thể đường tự xuất hiện.
Phương pháp này ít phổ biến vì: từ khi bắc đầu xuất hiện tinh thể cho đến khi đạt yêu cầu về số lượng tinh thể phải trải qua một thời gian nấu tương đối dài (thời gian này phụ thuộc vào độ tinh khiết và độ nhớt của nguyên liệu gốc). Khi dung dịch tự xuất hiện tinh thể thì độ quá bão hoà của dung dịch tương đối cao, và sau khi xuất hiện thì tinh thể lớn lên không ngừng, vì vậy so với các mầm tinh thể xuất hiện ở giai đoạn cuối cùng thì có sự chênh lệch kích thước. Ngoài ra, vì nhiệt độ cao làm cho nguyên liệu gốc tăng màu sắc, dễ xảy ra hiện tượng dính tinh thể...
b. Phương pháp kích thích
      Nấu mật đến nồng độ quá bão hoà a = 1,2 – 1,3 sau đó thay đổi độ chân không đột ngột, hoặc cho một lượng mầm (bột đường) rất ít để kích thích sự xuất hiện tinh thể mới.
c. Phương pháp tinh chủng
      Không chế nồng độ nguyên liệu gốc sao cho độ quá bão hoà a = 1,05 – 1,15, sau đó cho một lượng mầm thích hợp vào. Ở độ quá bão hoà này không hoà tan mầm tinh thể và cũng không kích thích sự xuất hiện thêm mầm tinh thể mới, cho nên lượng đường mầm cho vào sẽ hấp thu lượng đường dư từ dung dịch và lớn lên.
3. Nuôi tinh thể
Khi dịch đường non có đủ số lượng tinh thể theo yêu cầu, nhanh chóng dùng nước nấu để làm giảm độ bão hào xuống đến a = 1,1 (nhằm không cho dịch đường non xuất hiện tinh thể mới). Nguyên tắc chung là nước nấu cho vào phải có nhiệt độ trong nồi nấu từ 3 – 5oC (để giữ nhiệt độ sôi trong nồi, tăng khả năng truyền nhiệt và trộn đều với đường non trong nồi).
Trong giai đoạn nuôi tinh thể cần chú ý các vấn đề sau
      - Do tinh thể của dịch đường non vẫn còn nhỏ nên, diện tích kết tinh nhỏ, độ tinh khiết của mẫu dịch cao nên dễ sinh ra các tinh thể giả. Vì vậy ta cần chú ý khống chế nồng độ sao cho phù hợp với sự lớn lên của tinh thể.
      - Các tinh thể nhỏ nhưng số lượng tinh thể nhiều nên dễ xảy ra hiện tượng dính tinh thể. Vì vậy phải khống chế tốt độ chân không, áp lực buồn đốt sao cho quá trình đối lưu tốt, đồng thời cũng phòng ngừa sự xuất hiện tinh thể giả.      
4. Cô đặc cuối
Khi tinh thể đạt đến kích thước quy định, ngừng nạp liệu, cô đến nồng độ ra đường (tránh cô đặc nhanh vì có thể tạo thành tinh thể dại)

IV. TRỢ TINH VÀ SỰ TẠO THÀNH MẬT CUỐI
1. Trợ tinh
Đường non lấy ra từ nồi nấu chứa một thành phần đường nhất định. Do đường non nấu giai đoạn cuối ở thể tích lớn, nồng độ mẫu dịch cao, độ nhớt lớn cho nên sự đối lưu trong nồi không tốt. Và nếu muốn hoàn thành quá trình kết tinh trong nồi nấu thì phải trải qua một thời gian dài mà hiệu quả lại không cao, mà còn tiêu tốn nhiều hơi đốt.
Vì vậy sau khi nấu đến một thể tích nào đó với nồng độ và thuần độ yêu cầu thì ta đưa đường non đến thiết bị trợ tinh để tiếp tục thực hiện quá trình kết tinh.
Trong thiết bị trợ tinh, ta khống chế nhiệt độ và nồng độ thích hợp làm cho tinh thể tiếp tục hấp thụ thành phần đường dư của mẫu dịch, giảm bớt thành phần đường trong mẫu dịch, làm tăng hiệu suất thu hồi.
Nguyên lý trợ tinh
Căn cứ vào độ tinh khiết của mẫu dịch, ta khống chế nồng độ và nhiệt độ đễ đưa mẫu dịch đến độ bão hòa thích hợp, đồng thời duy trì một khoảng thời gian đủ để thành phần đường trong nước cốt hấp thụ lên bề mặt tinh thể đường.
      Khi nhiệt độ hạ thấp thì độ hòa tan của đường giảm làm cho độ quá bão hòa tăng, quá trình kết tinh tiếp tục, các tinh thể lớn lên.


2. Sự tạo thành mật cuối
Thành phần mật cuối phụ thuộc vào nguyên liệu, điều kiện công nghệ của nhà máy, thời vụ sản xuất...

Thành phần
Tỷ lệ (%)
Các chất đường:
Sacaroza
Glucoza
Fructoza
Các chất cacbohydrat khác
Chất keo, tinh bột, pentosan, các đồng phân của hexitol, myoinositol, d - manitol, axit aronic
Tro (% so với trọng lượng tro)
K2O
CaO
MgO
Na2O
Fe2O3
Axit
SO3
Cl
P2O5
SiO2
Hợp chất chứa nitơ
Prôtêin
Axit amin
Các hợp chất nitơ không prôtêin
Hợp chất không chứa nitơ
Axitaconitic, xitric, malic, oxalic, glucolic, sucxinic,...
Xơ, sterin, phosphatit
Vitamin

30 – 40
4 – 9
5 – 12
2 – 5



30 – 50
7 – 15
2 – 14
0,3 – 9,0
0,4 – 2,7
                          7 – 27
12 – 20
0,5 – 2,5
1 – 7

3 – 6
0,3 – 0,5
1,5 – 3,0

0,5 – 1,5
0,1 – 1,0
lượng nhỏ
Trước đây người ta cho rằng sự tạo thành mật cuối là do đường ngừng kết tinh. Vì khi độ tinh khiết giảm, độ nhớt tăng lên, cản trở các phân tử đường di động và kết tinh trên bề mặt tinh thể.
Nhưng thực tế chứng minh độ nhớt không làm ngừng hẳn quá trình kết tinh mà chỉ làm cho quá trình kết tinh bị chậm lại.
Giải thích bằng thuyết hóa lý
Người ta đã cố gắng giải thích sự tạo thành mật cuối bằng cách nghiên cứu sự ảnh hưởng của các chất hóa học và các chất không đường trong mật cuối đến độ hòa tan của mật tức là ảnh hưởng của chúng đến hệ số bão hòa.
      Những chất không đường làm tăng độ hòa tan gọi là chất tạo mật cuối dương (muối natri, muối kali), những chất không đường làm giảm độ hòa tan gọi là chất tạo mật cuối âm (muối canxi).
      Tuy nhiên các chất không đường làm tăng độ hòa tan của đường nhưng không làm ngừng quá trình kết tinh. Ngoài ra, khi có mặt các chất tạo mật cuối  âm nhiều vẫn có mặt cuối.
Giải thích bằng luận thuyết hóa học
Người ta cho rằng chất tạo mật cuối là chất vô cơ của nguyên liệu (do tạo thành sacarat)
      Mật khác người ta nhận thấy mật cuối nào có thành phần tro chứa nhiều canxi thì độ tinh khiết bao giờ cũng thấp. Và Dedek kết luận rằng canxi không mang theo đường mà chỉ có một phân tử kali, natri mang theo một phân tử đường.
      Tuy nhiên, cách giải thích này cũng bị phá sản do thực tế chứng minh rằng sự tổn thất đường trong mật cuối vào cuối vụ sản xuất bao giờ cũng lớn hơn mặc dầu lượng kali và natri không thay đổi.
Giải thích bằng thuyết cơ lý hóa học
      Phân tích ưu khuyết điểm của các học thuyết trên, Silin đề ra học thuyết tổng hợp tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến hàm lượng đường trong mật cuối và cho thấy:
      - Độ nhớt gây khó khăn cho quá trình ly tâm
      - Ảnh hưởng của chất không đường đến độ hòa tan của đường (tức là ảnh hưởng của chúng đến hệ số bão hòa). Trong trường hợp a£ 1 tức là không có chất tạo mật cuối, hoặc các chất tạo mật cuối âm ta vẫn nhận được mật cuối. Như vậy theo học thuyết này tất cả những chất không đường (kể cả các chất không liên kết với đường) khi có mặt trong dung dịch sẽ làm tăng nồng độ chất khô, tăng độ nhớt, gây khó khăn cho quá trình kết tinh. Mặt dầu quá trình kết tinh vẫn xảy ra, tuy nhiên rất chậm không kinh tế và không ly tâm được.
Bằng cách giải thích này Silin và các cộng sự đã đưa ra những kết luận sau:
      - Không nên cho rằng chỉ có một số chất tạo mật cuối, vì mỗi một chất không đường đều có tác dụng đến sự tạo thành mật cuối.
      - Không chỉ có cation tạo mật cuối mà các anion cũng có khả năng tạo mật cuối.
      - Đối với cation chất tạo mật cuối giảm dần theo thứ tự kali, natri, canxi
      - Đối với anion chất tạo mật cuối giảm dần theo thứ tự axit glutamic, tirozin, các sản phẩm phân hủy đường khử và .


Chương 5: LY TÂM, SẤY, TÁCH THÀNH PHẨM


I. LY TÂM
1. Nguyên lí của quá trình tách mật đường non
Đây là quá trình tách mật đường non ra khỏi tinh thể đường bằng lực ly tâm trong thùng quay với tốc độ cao.
2. Quá trình phân hạt (được thực hiện qua 4 giai đoạn)
- Cho đường non vào máy ly tâm
Đầu tiên cho máy ly tâm quay từ từ đến khi tốc độ máy đạt 200 – 300 vòng/phút, sau đó mở van nạp liệu cho đường non vào.
Thông thường cho đường vào đầy thùng quay để phát huy tối đa năng suất thiết bị, tuy nhiên trong thực tiễn lượng nạp liệu thay đổi tùy thuộc vào chất lượng đường non. Nếu hạt đường cát lớn, độ dính nhỏ, dễ tách mật nên lớp đường có thể dày, tuy nhiên không được tràn mâm quay. Ngược lại nếu đường cát không đồng đều, độ dính lớn nên khống chế chiều dày lớp đường mỏng hơn để dễ tách mật đường, giảm thời gian tách mật.
- Phân mật
      Sau nạp liệu, tăng dần tốc độ mâm quay đến cực đại, lúc này phần lớn mật trong đường non được tách ra gọi là mật nâu. Thời gian phân mật phụ thuộc vào chiều dày lớp đường non, độ nhớt, khích thước thùng quay...
- Rửa đường
Sau khi phân mật xong, trên bề mặt đường còn phủ một lớp mật nâu. Do vậy ta cần phải tách lớp mật này để đảm bảo yêu cầu chất lượng đường. Quá trình rửa đường bao gồm 2 giai đoạn:
      Rửa đường bằng nước nóng (nhiệt độ từ 75 – 80oC), lượng nước rửa dùng khoảng 2% so với lượng đường non. Sản phẩm của rửa nước là mật trắng (có độ tinh khiết cao hơn mật nâu)
      Sau đó phun hơi bão hòa có áp suất 3 – 4 at vào đường non, lượng hơi dùng khoảng 2 – 3% so với khối lượng đường non. Hơi bão hòa sẽ làm tăng nhiệt độ của mật, do đó độ nhớt giảm, phân ly dễ dàng. Ngoài ra một phần nước ngưng tụ từ hơi có tác dụng rửa đường một lần nữa, hơi bão hòa còn làm cho đường khô hơn, rút ngắn thời gian sấy, giảm khả năng đóng cục của đường.
- Hãm máy và xã đường
      Sau quá trình rửa đường ta ngắt điện mô tơ để hãm máy, dùng phanh hãm làm giảm tốc độ thanh quay, nâng chụp đáy lên và lấy đường ra khỏi thiết bị ly tâm.


II. SẤY KHÔ
1. Mục đích
Đưa đường đến độ ẩm thích hợp, làm cho đường thành phẩm có màu sáng bóng, không bị hư hỏng, biến chất trong quá trình bảo quản.
2. Nguyên lí làm khô
Sử dụng nhiệt lượng tỏa ra từ bản thân đường sau quá trình ly tâm, hay sử dụng không khí nóng làm bốc hơi nước trên bề mặt đường.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tốc độ làm khô
- Kích thước hạt tinh thể của đường cát và chiều dày lớp đường
 Thời gian làm khô sẽ rút ngắn khi khi diện tích bề mặt bốc hơi của đường tăng lên. Nếu hạt tinh thể quá bé, lớp đường quá dày, lượng ẩm bên trong khó khuếch tán, tốc độ làm khô nhỏ.
- Lượng nước chứa trong đường làm khô
 Nếu đường cát sau quá trình ly tâm có độ ẩm lớn thì thời gian làm khô sẽ kéo dài.
- Nhiệt độ và độ ẩm không khí
 Nhiệt độ không khí cao, độ ẩm tương đối thấp, khả năng hút ẩm mạnh, tốc độ làm khô nhanh. Tuy nhiên nhiệt độ không khí nóng không nên quá cao vì nó sẽ ảnh hưởng đến chất lượng đường sau khi sấy.
- Thiết bị làm khô
 Cấu tạo thiết bị khác nhau thì tốc độ làm khô cũng khác nhau.
4. Các phương pháp làm khô
a. Làm khô tự nhiên
Thông thường nhiệt độ đường cát sau khi ra khỏi máy ly tâm lớn hơn 80oC, ta làm nguội tự nhiên đến một nhiệt độ thích hợp. Lợi dụng nhiệt lượng của bản thân nó tỏa ra làm cho đường khô. Tuy nhiên, thời gian làm khô dài, khó khống chế ẩm độ thành phẩm, và khi độ ẩm của đường sau khi ly tâm không ổn định sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả làm khô.
b. Làm khô bằng không khí nóng

Trước tiên sấy nóng không khí, làm giảm độ ẩm tương đối của nó, sau đó đưa vào máy làm khô cho tiếp xúc với đường cát nhằm hấp thu ẩm của chúng. Đối với phương pháp này, thời gian làm khô tương đối ngắn, và có thể khống chế hàm lượng ẩm trong đường thành phẩm.
Share on Google Plus

About Unknown

This is a short description in the author block about the author. You edit it by entering text in the "Biographical Info" field in the user admin panel.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét