PTSP NEW: BANH BAO THIÊN NHIÊN / PHẦN 1



Trải nghiệm mới với các loại sản phẩm giải khát mới, tốt cho sức khỏe. đảm bảo không sử dung hóa chất, phẩm màu. sản phẩm trái cây lên men được làm với quy trình như sau:

Trái cây (là hàng việt nam nhé các bạn) >> phân loại>>sơ chế>>làm sạch bằng nước >> bỏ vào hũ>>thêm đường vào>>đóng nắp và để lên men.

Sau 3 tháng chúng ta sẽ được  thưởng thức 1 loại nước thơm mùi tự nhiên của loại quá đó, bắt mắt với màu tự nhiên.


Tại sao bạn không thử để có 1 sự khác biệt. Hãy đến "BỌT TRÁI CÂY" để thử và khám phá loại đồ uống mới nào các bạn ơi.^^
ĐỊA CHỈ: 88/955E, Lê Đức Thọ, P. 6, Q. Gò Vấp, TP.HCM
http://bottraicay.blogspot.com/p/l.html



Mô tả sản phẩm
1.      Bản mô tả về sản phẩm
*     Tên sản phẩm: BÁNH BAO THIÊN NHIÊN
*     Thị trường mục tiêu: những người quan tâm đến ăn uống vì sức khỏe, sở thích, tầng lớp có thu nhập trung bình
*     Người tiêu dùng: người tiêu dung chỉ cần mua sản phẩm về cho vào nồi hấp hoặc microwave làm nóng lên là có thể sử dụng được, sự tiếp nhận của người tiêu dùng có thể ban đầu sẽ còn thấp nhưng với những lợi ích mà sản phẩm mang lại chắc chắc có thể thu hút được người tiêu dùng
*     Các thuộc tính chính của sản phẩm: nguyên liệu hoàn toàn từ thiên nhiên, các thành phần có trong rau củ sẽ cung cấp thêm một lượng vitamin, khoáng, cenllulo cho người tiêu dùng mà vẫn đảm bảo được chất lượng thực sự
*     Đối thủ cạnh tranh: bánh bao Việt Quán, bánh bao Việt Nhật.
*     Thị trường phân phối sản phẩm: siêu thị và các nhà hàng phong cách trung hoa trong và ngoài nước
*     Giá cả: giá cả dự tính bán cho người tiêu dùng: 20000đvn/ 1 hộp 9 cái; giá của sản phẩm cạnh tranh rất đa dạng: trung bình 1 hộp của các công ty là từ 10000 – 25000 đvn/1 hộp
*     Các tính chất cảm quan của sản phẩm: vỏ bánh mềm, mịn, màu sắc tự nhiên của rau ngọt vừa phải, nhân bánh dẻo, ngọt vừa, màu sắc tự nhiên của củ và các lọai đậu.
*     Giá dự tính của nguyên liệu: bột làm vỏ bánh: 25000 đvn; rau, củ: 20000 cho một mẻ bánh khoảng 40 cái
*     Điều kiện bảo quản: bảo quản nơi thoáng mát, có thể để trong ngăn mát của tủ lạnh để bảo quản lâu hơn.
*     Thời hạn sử dụng dự kiến: 3 tháng kể từ ngày sản xuất
*     Phân phối cho các siêu thị, bán lẻ theo đơn đặt hàng của nhà hàng trong và ngoài nước, chi nhánh bán lẻ
*     Bao bì: màu sắc nổi bậc nhưng tao nhã. Kiểu dáng sang trọng, bao bì được thiết kế theo từng mùa cụ thể, biểu tượng: hình ảnh rau củ quả, thông tin trên nhãn mác: tất cả những thông tin cần thiết
*     Quy trình sản xuất và công nghệ bán tự động, cơ giới hóa 1 nữa.
2.      Phát triễn sản phẩm mẫu
Sản phẩm mẫu được làm tại nhà
3.      Kiểm tra sản phẩm mẫu
Kiểm tra sản phẩm mẫu bằng phương pháp cho điểm thị hiếu đối với hội đồng cảm quan gồm người


PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ SẢN PHẨM

1.      NGUỒN GỐC CỦA BÁNH BAO
            Việt Nam
Năm 111 TCN, quân của Hán Vũ Đế xâm lược nước Nam Việt và sáp nhập Nam Việt vào đế chế Hán. Người Trung Quốc muốn cai quản miền châu thổ sông Hồng để có điểm dừng cho tàu bè đang buôn bán với Ấn Độ và Indonesia
Tiếp theo sau nhà Hán, các triều đại phong kiến Trung Quốc khác thay nhau đô hộ Việt Nam. Các triều đại này cố gắng đồng hóa dân tộc Việt Nam theo tộc Hán. Tuy nhiên, sau 1000 năm Bắc thuộc, người Việt giành được độc lập vào năm 938.
Trong hơn 1.000 năm bị Trung Hoa cai trị, người Việt chịu ảnh hưởng bởi thể chế chính trị, xã hội và văn hóa của các chế độ phương Bắc. Trong đó ẩm thực cũng chịu ảnh hưởng một phần không nhỏ, và món bánh bao cũng là một món ăn ra đời tại Việt Nam như thế. Trãi qua nhiều thời gian thăng trầm, người Việt đã quen thuộc và sang tạo thêm nhiều loại bánh bao mới đặc trưng cho dân tộc Việt Nam. Ngoài bánh bao hấp nhân mặn, ngọt ra, người Việt Nam đã làm ra các lọai bánh bao nướng, bánh bao chiên hay bánh bao mít cũng hấp dẫn không kém.

            Trung Quốc
Bánh bao (chữ Hán包子bính âmbāozi) là một loại bánh làm bằng bột mỳ có nhân và hấp trong ẩm thực Trung Hoa. Nó giống với loại bánh màn thầu truyền thống của Trung Quốc. Nhân bánh bao được làm bằng thịt và/hoặc rau. Bánh bao thường được dùng bất cứ bữa ăn nào trong ngày trong văn hóa Trung Hoa, và thường được người Trung Quốc dùng làm món ăn sáng. Theo truyền thuyết, bánh bao do quân sư Zhu Geliang tạo ra
*     Các loại bánh bao nổi tiếng của Trung Quốc
·        Cha siu baau hay Charsiu bau (Giản thể叉烧包Phồn thể叉燒包Bính âm: chāshāobāo) hay manapua, có nhân thịt heo xá xíu.
·        Goubuli baozi (chữ Hán狗不理包子bính âmgǒubulǐ bāozi): bánh bao nhân thịt ở Tianjin; tên nó có nghĩa là, "bánh bao cho không thèm."
·        Xiaolongbao (Giản thể小笼包Phồn thể小籠包Bính âm: xiǎolóngbāo): một loại bánh bao nhỏ nhân thịt từ Shanghai chứa nước trái cây.
·        Shengjian mantou (Phồn thể生煎饅頭Giản thể生煎馒头Bính âm: shēngjiān mántóu): một loại bánh bao nhỏ chiên, nhân thịt từ Shanghai.
·        Tangbao (Phồn thể湯包Giản thể汤包Bính âm: tāngbao): một loại bánh bao lớn, có xúp từ Yangzhou, chứa xúp trong nhân khi ăn phải uống nước nhân trước sau đó ăn vỏ.
·        Doushabao (chữ Hán豆沙包bính âmdòushābāoHokkien hay Tiếng Đài Loan: taosa bau) là một loại bánh bao có nhân đậu đỏ nhừ.
·        LianRong bau (chữ Hán莲蓉包bính âmliánróngbāo): một loại bánh bao có nhân hạt sen.
·        Naihuangbao (chữ Hán奶黃包bính âmnǎihuángbāo): nhân sữa trứng ngọt màu vàng.
·        Zhima bao loại bánh bao nhân mè đen nhừ.

2.      SỰ PHÁT TRIỄN CỦA BÁNH BAO TỪ XƯA ĐẾN NAY
Bánh bao truyền thống từ ngày xưa chủ yếu là các lọai bánh bao hấp, hoặc bánh màn thầu truyền thống của Trung Quốc được sản xuất hòan toàn bằng thủ công, ngay cả trang thiết bị để hấp bánh cũng chỉ là những xửng hấp bằng tre, gỗ,… Nhưng với sự phát triễn không ngừng xã hội ngày một hiện đại hóa thì bánh bao không còn sản xuất theo quy mô hộ gia đình nữa mà sản xuất với số lượng lớn, nồi hấp hiện đại. Tất cả các gia đọan trong quá trình sản xuất hầu như được làm bằng máy. Và trong tương lai chắc chắc sẽ hoàn toàn được cơ giới hóa, đảm bảo được vấn đề vệ sinh an toàn hơn cho người tiêu dùng cũng như bổ sung thêm các vi chất dinh dưỡng cho họ. 


3.      GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGUYÊN PHỤ LIỆU
            Cây lúa mì

Lúa mì hay tiểu mạch (Triticum spp.) là một nhóm các loài cỏ đã thuần dưỡng từ khu vực Levantvà được gieo trồng rộng khắp thế giới. Về tổng thể, lúa mì là thực phẩm quan trọng cho loài người, sản lượng của nó chỉ đứng sau ngô và lúa gạo trong số các loài cây lương thựcHạt lúa mì là một loại lương thực chung được sử dụng để làm bột mì trong sản xuất các loại bánh mìmì sợi, bánh, kẹo v.vcũng như được lên men để sản xuất bia.rượuhay nhiên liệu sinh họcLúa mì cũng được gie trồng ở quy mô hạn hẹp làm cỏ khô cho gia súc và rơmcũng có thể dùng làm cỏ khô cho gia súc hay vật liệu xây dựng để lợp mái
Lúa mì có nguồn gốc từ Tây Nam Átrong khu vực được biết dưới tên gọi Lưỡi liềm Màu mỡ (khu vực Trung Đôngngày nay). Các mối quan hệ di truyền giữa lúa mì einkorn và lúa mì emmer chỉ ra rằng khu vực thuần dưỡng lúa mì rất có thể là nằm gần Diyarbakır ở Thổ Nhĩ Kỳ [9]. Các loại lúa mì hoang dại này đã được thuần dưỡng như là một phần của nguồn gốc nông nghiệp tại khu vực Lưỡi liềm Màu mỡ này. Việc trồng trọt và thu hoạch cũng như gieo hạt lặp đi lặp lại các loại cỏ hoang dại này đã dẫn tới sự thuần dưỡng lúa mì thông qua chọn lọc và các dạng đột biến với tai thóc dai, còn nguyên vẹn khi thu hoạch, hạt lớn, và xu hướng các bông con còn nằm lại trên thân cây cho đến khi thu hoạch [10]. Do mất đi cơ chế phát tán hạt nên lúa mì đã thuần dưỡng chỉ còn khả năng hạn chế trong việc nhân giống một cách hoang dã.[11]
Việc trồng trọt lúa mì đã bắt đầu lan rộng ra ngoài khu vực Lưỡi liềm Màu mỡ trong thời đại đồ đá mới. Vào khoảng năm 3000 TCN, lúa mì đã xuất hiện tại EthiopiaẤn ĐộIrelandvà Tây Ban Nha. Khoảng 1 thiên niên kỷ sau nó tới Trung Quốc[11]. Khoảng năm 1000 TCN việc trồng trọt nông nghiệp với sử dụng sức ngựa, trâu, bò cày bừa đã làm gia tăng sản lượng lúa mì, giống như việc sử dụng các máy gieo hạt thay thế cho việc gieo hạt bằng cách rải hạt trong thế kỷ 18. Sản lượng lúa mì tiếp tục tăng lên, do các vùng đất mới được đưa vào khai thác, cũng như do kỹ thuật canh tác của nghề nông tiếp tục được cải tiến với việc sử dụng các loại phân bón, máy gặt, máy đập lúa (máy gặt đập), các loại máy cày đấtmáy xới đấtmáy trồng cây dùng sức kéo của máy kéo, công tác thủy lợi và phòng trừ sâu bệnh dịch hại hoàn thiện hơn cũng như việc tạo ra các giống mới tốt hơn (xem thêm Cách mạng xanh và Lúa mì Norin 10). Với tỷ lệ gia tăng dân số trong khu vực sử dụng lúa mì như là loại lương thực chính đang suy giảm, trong khi năng suất vẫn tiếp tục tăng, nên diện tích gieo trồng lúa mì hiện tại đã bắt đầu xu hướng giảm và nó là lần đầu tiên diễn ra xu hướng này trong lịch sử loài người hiện đại. Vào năm 2007, sản lượng lúa mì đã giảm tới mức thấp nhất kể từ năm 1981, và năm 2006 là lần đầu tiên lượng tiêu thụ lúa mì trên toàn thế giới nhiều hơn là sản lượng – một khoảng trống sẽ được tiếp tục dãn rộng do nhu cầu tiêu dùng lúa mì hiện nay đã tăng nhanh hơn mức tăng của sản xuất.

3.2.           Bột mì
Về mặt năng lượng, bột mì cũng như gạo cung cấp phần lớn năng lượng cho cơ thể hoạt động. Do giá thành của tinh bột là rẻ so với chất đạm, chất béo nên đối với các nước nghèo đang phát triển cũng như các vùng dân cư nghèo thì gạo và bột mì là thực phẩm chủ yếu hàng ngày và nhờ thế mà người dân nghèo có thể đảm bảo được nhu cầu năng lượng hàng ngày của mình. Tuy nhiên đối với các nước giàu cũng như người dân thành thị, nơi mà lượng thực phẩm khá đầy đủ thì việc ăn quá nhiều chất tinh bột lại dễ gây béo phì. Trong tháp dinh dưỡng, tầng thực phẩm tinh bột được đặt ở đáy với khối lượng lớn nhất. Ngày nay cơ cấu này trong tháp dinh dưỡng đã bắt đầu được sửa đổi, phần chất bột được thu nhỏ lại, đặc biệt đôi với các nước mà tỷ lệ béo phì đang tăng cao.
Về mặt dinh dưỡng, bột mì cũng được xem xét kỹ lưỡng dưới nhiều góc cạnh. Bản thân hạt lúa mì rất giàu dinh dưỡng, bao gồm cả chất xơ, các loại vitamin và khoáng chất. Các chất dinh dưỡng này tập trung nhiều ở phần vỏ của hạt lúa mì và vì vậy quá trình xay xát chế biến đã làm tổn thất phần lớn các vi chất dinh dưỡng này (vitamin và khoáng chất). Hạt lúa mì và bột mì được xay càng kỹ, càng trắng thì càng bị mất nhiều chất dinh dưỡng. Nói khác đi, bột mì trắng ít bổ dưỡng hơn bột mì đen.
Giá trị dinh dưỡng của bột mì tùy thuộc vào cách chế biếnBột mì sản xuất từ hạt toàn phần có giá trị dinh dưỡng giống như nguyên liệu. Còn loại bột mì trắng bị mất đi lớp vỏ aloron và mầm nên cũng mất theo nhiều chất dinh dưỡng quan trọng.
Protein:Protein bột mì ngoài albumin và globulin còn có prolamin và glutelin làm cho bột mì có thể dùng làm bánh, yếu tố hạn chế là lysin. Các thành phần dinh dưỡng khác như: glucid, lipid, vitamin và khoáng trong bột mì cũng tương tự như hạt gạo.
Về phương diện vệ sinh cần chú ý, bột mì rất dễ hút ẩm và bị mốc. Bột đã bị mốc nói chung không nên dùng để chế biến các loại bánh, bánh mì và mì sợi.
(Theo Ykhoa.net)

Bảng 1: thành phần hóa học của các sản phẩm nghiền từ lúa mì ( % theo chất khô)

Tên sản phẩm
Tỉ lệ lấy bột
Tro %
Xenluloza %
Pentoza %
Tinh bột %
Chất béo %
Gluten, %
Ướt
khô
Protein
Hạt
100
1,74
1,51
5,42
62,99
2,06
42,74
15,16
12,51
Bột thượng hạng
10,14
0,47
0,13
1,57
80,1
0,99
39,16
11,58
10,33
Bộtn hạng nhất
22,4
0,53
0,22
1,84
77,84
1,2
43,21
12,9
11,15
Bột hạng hai
47,5
12
0,48
3,44
72,52
2,02
48,42
16,95
14,8
Cám
18,4
5,4
8,35
22,02
13,8
4,77
Không có
Không có
16,17


*     Vi sinh vật trong bột
Vi sinh vật trong bột do hai nguồn nhiễm: từ hạt( chủ yếu ) và rơi vào từ không khí, từ nước dùng khi xay theo phương pháp ướt hoặc từ các dụng cụ, máy móc, các đồ chứa đựng…
Hạt dùng để xay bột bao giờ cũng chứa một lượng vi sinh vật nào đó. Trong quá trình nghiền phần lớn các vi sinh vật ở trên bề mặt hạt được chuyển trực tiếp vào bột. Số lượng vi sinh vật chuyển vào bột này có liên quan mật thiết với hiệu suất bột. Vi sinh vật thường nhiều hơn cả là ở cám, và ở bột có chất lượng cao thì ít vi sinh vật.
Trong bột thường có vi khuẩn và nấm mốc. Trong số các vi khuẩn có thể thấy tế bào sinh dưỡng hoặc bào tửi của trực khuẩn khoai tây ( Bacillus Mesentericus) và trực khuẩn cỏ khô (Bacillus Subtilis). Những trực khuẩn này có lẫn trong bột và sau này gây ra bệnh “khoai tây” ở bánh. Ngoài ra, có thể gặp E.coli, nếu dùng nước rửa hạt trong quá trình xay nghiền hạt theo phương pháp ướt không đủ tiêu chuẩn vệ sinh

3.3.           Men bánh bao

Saccharomyces là một chi nấm men được sử dụng rộng rãi trong ngành thực phẩm như làm bánh mì, sản xuất cồn. Saccharomyces có nghĩa là nấm đường và là loại vi sinh vật duy nhất đuợc sản xuất với quy mô rất lớn trên thế giới. Nguyên liệu chính dùng để sản xuất men là mật rỉ, ngoài ra một số hóa chất khác sẽ được cung cấp trong quá trình nuôi cấy men để bổ sung các chất dinh dưỡng mà mật rỉ không đủ. Quá trình nuôi dưỡng men Saccharomyces là quá trình hiếu khí vì vậy người ta phải thổi vào bồn lên men một lượng khí rất lớn.
Trong quá trình nuôi cấy nấm men người ta phải kiểm soát lượng mật rỉ nạp vào bồn lên men theo lượng cồn có trong môi trường lên men. Nếu lượng mật nạp vào nhiều quá nấm men sẽ không sinh sản mà sẽ thực hiện quá trình lên men tạo ra cồn khiến nồng độ cồn tăng cao và năng suất men sẽ giảm, nhưng nếu lượng mật nạp vào quá ít nấm men sẽ thiếu chất dinh dưỡng cho sinh trưởng.
Chất lượng của nấm men phụ thuộc vào công dụng của nó. Nếu sản xuất men bánh mì thì năng lực sinh khí trong bột (hoạt tính) là thông số cần kiểm soát, nếu nấm men dùng cho công nghiệp cồn thì khả năng sản xuất cồn, khả năng chịu nồng độ cồn cao là quan trọng.
Hiên nay nhờ vào tiến bộ của công nghệ gen nên người ta có thể tạo ra các chủng nấm men phù hợp với các công dụng của nó và cho năng suất cao (dựa trên 1 kg nguyên liệu chính). Tuy nhiên công nghệ kiểm soát quá trình lên men vẫn đóng vai trò quan trọng để sản xuất các mẻ men chất lượng và sản lượng cao
v     Quy trình sản xuất nấm men có thể tóm tắt như sau:
Nuôi cấy trong phòng thí nghiệm --> Nuôi cấy men giống trong nhà máy --> Ly tâm men giống --> Nuôi cấy men thương mại --> Ly tâm men thương mại --> Lọc men --> Đóng gói sản phẩm men tươi hoặc sấy khô để có sản phẩm men khô.
Sản phẩm men tươi có thời hạn sử dụng ngắn chỉ vài tuần và phải trữ lạnh, sản phẩm men khô có thời hạn sử dụng dài hơn, thường trên 1 năm nếu được hút chân không và được trữ trong điều kiện thường.
Quá trình sản xuất men sẽ tiêu tốn rất nhiều nước và thải ra môi trường một lượng lớn nước thải với hàm lượng COD và BOD cao đòi hỏi các nhà máy phải trang bị một hệ thống xử lý nước thải.
v     Phân loại men
1.      Men lạt: Men dùng cho sản xuất bánh mỳ lạt (Hàm lượng đường thấp). Những chủng men này chỉ sống và phát triển tốt trong môi trường có nồng độ đường thấp (nhỏ hơn 20%)
2.      Men ngọt: Men dùng cho sản xuất bánh mỳ ngọt (Hàm lượng đường cao). Những chủng men này chỉ sống và phát triển tốt trong môi trường có nồng độ đường cao (cao hơn 20%). Ngoài ra men này ngày nay còn được ứng dụng sản xuất bánh bao.

3.4.           Rau ngót
Rau ngót hay còn gọi là bồ ngót, bù ngót, tên khoa học là Sauropus androgynus (L.) Merr., thuộc họ thầu dầu (Euphorbiaceae). Cây nhỏ cao cỡ 1,5 m phân cành nhiều, mỗi cành mang 10 - 12 lá hình trứng dài hoặc bầu dục, mọc so le, xếp thành hai dãy. Hoa đơn tính cùng gốc mọc ở nách lá. Quả nang hình cầu dẹp mang đài hoa màu đỏ. Hạt hình ba góc, có vân nhỏ

3.5.           Gấc
Gấc (danh pháp khoa họcMomordica cochinchinensis, đồng nghĩa Muricia cochinchinensisMuricia mixtaHán-Việt: mộc miết quả, 木鳖果), là một loài thực vật được tìm thấy chủ yếu tại Việt Nam. Quả của nó được sử dụng trong ẩm thực lẫn trong y học.
Tên khoa học: Momordica cochinchinensis (Lour) Spreng. họ Bầu bí (Cucurbitaceae).
Tên khác: Mộc miết (TQ) – Muricic (Pháp) – Cochinchina Momordica (Anh).
·        Bộ phận dùng:
1. Hạt gấc: Còn gọi là Mộc miết tử (TQ) là hạt lấy ở quả gấc chín (Semen Momordicae) đã bóc vỏ màng và chế biến khô.
Đã được ghi vào Dược điển Việt Nam (1983) và Dược điển Trung Quốc (1963),(1997).
2. Dầu gấc: (Oleum Momordicae) là dầu ép từ màng đỏ bọc hạt gấc. Đã được ghi vào Dược điển Việt Nam (1997).
3. Rễ gấc: Còn gọi là Phòng kỷ nam là rễ cây gấc (Radix Momordiae) phơi khô
·        Đặc điểm
Gấc là loài cây thân thảo dây leo thuộc chi Mướp đắng. Cây gấc leo khỏe, chiều dài có thể mọc đến 15m. Thân dây có tiết diện góc. Lá gấc nhẵn, thùy hình chân vịt phân ra từ 3 đến 5 dẻ, dài 8-18 cm. Gấc là loài đơn tính khác gốc (dioecious). Hoa sắc vàng. Quả hình tròn, sắc xanh, khi chín chuyển sang màu đỏ cam, đường kính 15-20 cm. Vỏ gấc có gai rậm. Bổ ra mỗi quả thường có sáu múi. Thịt gấc màu đỏ cam. Hạt gấc màu nâu thẫm, hình dẹp, có khía. Gấc trổ hoa mùa hèsang mùa thu, đến mùa đông mới chín. Mỗi năm gấc chỉ thu hoạch được một mùa. Do vụ thu hoạch tương đối ngắn (vào khoảng tháng 12 hay tháng 1), nên gấc ít phổ biến hơn các loại quả khác. Gấc mọc hoang và được trồng khắp nơi ở nước ta...Trồng bằng hạt hay giâm cành vàp các tháng 2 - 3, trồng một năm có thể thu hoạch hàng chục năm. Ngay năm đầu đã có quả nhưng ít, càng về sau càng nhiều quả.
Gấc giàu các chất carotenoit và lycopen.
·        Công dụng:
1.      Màng gấc: Nhân dân ta dùng đồ xôi, ăn cả xôi và màng gấc.
2.      Dầu gấc: Dầu gấc có tác dụng như những thuốc có vitamin A, dùng bôi lên các vết thương, vết loét, vết bỏng làm cho chóng lành, lên da. Uống dầu gấc, người bệnh chóng lên cân, tăng sức chống đỡ bệnh tật của cơ thể, do chất caroten dưới tác dụng của men carotenase có nhiều trong gan sẽ tách b caroten thành hai phần tử vitamin A. Dùng cho trẻ em chậm lớn, trong bệnh khô mắt, quáng gà.
Liều dùng: Dầu gấc: Mỗi ngày 2 lần, uống trước 2 bữa ăn chính mỗi lần ăn chính mỗi lần 5 giọt, có thể tăng lên 25 giọt. Trẻ em 5-10 giọt 1 ngày. Dùng ngoài dưới dạng thuốc mỡ 5-10p100 dầu gấc hay bôi bằng dầu nguyên chất (chữa bỏng).
3.      Hạt gấc: Theo Đông y, hạt gấc vị đắng, hơi ngọt, tính ấm, có độc, dùng chữa các chứng bệnh ung thũng, mụn nhọt độc, tràng nhạt, eczema, viêm da thần kinh,trĩ, phụ nữ sưng vú. Có thể chế thuốc viên hay tán bột uống. Liều uống từ 0,8-1,2g. Nhưng thường dùng đắp ngoài da đồ mụn nhọt. Nhân dân ta còn dùng để đắp chữa chai bàn chân.
4.      Rễ gấc: Sao vàng, tán mỏng, dùng uống chữa tê thấp sưng chân gọi là Phòng kỷ nam.
5.      Lá gấc: Viện Đông y dùng lá gấc với tầm gửi đắp ngoài ra làm thuốc tiêu sưng tấy.
Bài thuốc: Chữa sưng vú, giã nhân hạt gấc với ít rượu đắp chỗ sưng đau.
Lưu ý: Nhân hạt gấc còn gọi là Phiên mộc miết, theo Đông y có tính rất lạnh, ăn phải thì cấm khẩu nguy hiểm.

3.6.           Khoai lang

Khoai lang (danh pháp khoa họcIpomoea batatas) là một loài cây nông nghiệpvới các rễ củ lớn, chứa nhiều tinh bột, có vị ngọt, được gọi là củ khoai lang và nó là một nguồn cung cấp rau ăn củ quan trọng, được sử dụng trong vai trò của cả rau lẫn lương thực. Các lá non và thân non cũng được sử dụng như một loại rau. Khoai lang có quan hệ họ hàng xa với khoai tây(Solanum tuberosum) có nguồn gốc Nam Mỹvà quan hệ họ hàng rất xa với khoai mỡ (một số loài trong chi Dioscorea) là các loài có nguồn gốc từ châu Phi và châu Á.
Chi Ipomoea có khoai lang, rau muống(Ipomoea aquatica) và một số loài hoa dại được gọi bằng một số tên như bìm bìm (chung với các chi khác), mặc dù từ này không được dùng để chỉ khoai lang, rau muống. Một vài giống cây trồng của Ipomoea batatas cũng được trồng như là cây trồng trong nhà.
Khoai lang là loài cây thân thảo dạng dây leo sống lâu năm, có các lá mọc so le hình tim hay xẻ thùy chân vịt, các hoa có tràng hợp và kích thước trung bình. Rễ củăn được có hình dáng thuôn dài và thon, lớp vỏ nhẵn nhụi có màu từ đỏ, tím, nâu hay trắng. Lớp cùi thịt có màu từ trắng, vàng, cam hay tím.

3.7.           Đậu đỏ
Đậu đỏ: Có tên là xích đậu. Theo y học cổ truyền, đậu đỏ vị ngọt chua, tính bình, không độc. Đậu đỏ trị được các chứng mụn lở, thủy thũng, đi tả, đau buốt cơ thể, nôn mửa...
Người bị kiết lỵ lâu ngày khó chữa trị nên ăn đậu đỏ thường ngày, có thể nấu cháo, nấu canh hoặc nấu chè tùy sở thích.
Đậu đỏ có tác dụng tiêu viêm, trị mụn nhọt gây đau nhức. Rang đậu cho giòn, sau đó giã nhuyễn, trộn chung với giấm thành hỗn hợp cô đặc; đắp thuốc lên chỗ đau, ngày thay vài lần sẽ chóng tiêu viêm.
- Cháo đậu đỏ: Giúp tiêu phù, lợi tiểu, tránh độc. Cháo đậu đỏ nấu như cháo đậu xanh, đậu đen.
Đậu đỏ trị chứng quai bị: Một vốc đậu đỏ tán thành bột mịn rồi trộn với lòng trắng trứng thêm một ít giấm, xoa đều lên vùng da bên sưng nề.
Đậu đỏ trị chứng u, nhọt mới phát: Đậu đỏ tán bột trộn với nước bôi lên nhọt mới sưng sẽ khỏi

3.8.           Đường tinh luyện
Yêu cầu của đường dùng trong chế biến(theo TCVN 6959 – 2001)
+ Hạt có tinh thể màu trắng
+ Kích thước tương đối đồng đều, tơi khô, không bị vón cục
+ Tinh thể đường có vị ngọt, không có vị lạ
Công dụng:
+ Tăng khả năng khử của môi trường và cung cấp chất dinh dưỡng cho vi khuẩn có khả năng khử nitrate thành nitrite
+ Bảo vệ chất khô chống việc gia tăng hàm lượng nước của sản phẩm
+ Ngoài ra đường còn có khả năng làm dịu vị mặn của muối
dưới đây là bảng chỉ tiêu đường sử dụng trong chế biến thực phẩm





















Share on Google Plus

About Unknown

This is a short description in the author block about the author. You edit it by entering text in the "Biographical Info" field in the user admin panel.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét