LỜI NÓI
ĐẦU
Bột ngọt và hạt nêm là hai sản phẩm gần
như khá quen thuộc, thường xuyên có mặt trong nhà bếp mỗi gia đình. Đó là các
chất phụ gia giúp cho món ăn thêm ngon, hấp dẫn lại cực kì thuận tiện khi sử
dụng. Tuy nhiên có rất nhiều tranh cãi, nhiều thông tin khác nhau xoay quanh vấn
đề sử dụng bột ngọt và hạt nêm, khiến người tiêu dùng cảm thấy hoang
mang.
Trước đây, người ta đua nhau sử dụng
bột ngọt như một thứ phụ gia quí hiếm. Nhưng sau đó, có thông tin cho rằng ăn
bột ngọt là không tốt, vì nó gây ung thư. Người ta lại chuyển sang dùng hạt nêm
do nghe nói hạt nêm không có chứa bột ngọt, nên tốt cho sức khỏe. Thế rồi, thông
qua nhiều kết quả kiểm nghiệm, người ta được biết trong hạt nêm không những chứa
bột ngọt mà còn có chất siêu bột ngọt. Nhiều thông tin khác lại cho rằng sử dụng
bột ngọt hay hạt nêm là an toàn trong liều lượng cho phép.
Vậy bột ngọt và hạt nêm chứa những chất
gì, liệu có an toàn cho sức khỏe hay không? Hậu quả ra sao nếu sử dụng quá nhiều
bột ngọt hay hạt nêm trong thực phẩm? Những vấn đề nêu trên cho đến nay, vẫn
đang còn khá nóng bỏng, lôi cuốn sự quan tâm của nhiều người tiêu dùng kể cả các
nhà khoa học, các chuyên viên về dinh dưỡng.
CHƯƠNG 1 :
GIỚI THIỆU CHUNG
1.1. Chất phụ gia thực
phẩm
Chất phụ gia thực phẩm là các chất được
bổ sung thêm vào thực phẩm để bảo quản hay cải thiện hương vị và bề ngoài của
chúng. Một số phụ gia thực phẩm đã được sử dụng trong nhiều thế kỷ. Ví dụ từ lâu
đời rồi người ta đã biết dùng các chất phụ gia như giấm để ngâm rau cải, củ
kiệu, như muối ăn dùng muối thịt, cá; hoặc chất tạo màu như lá dứa để tạo ra mùi
thơm và màu xanh; hay trái gấc tạo ra màu đỏ cho xôi gấc, hoa lài, hoa sen được
dùng để ướp trà,… Tất cả những chất đó có thể được coi như là chất phụ
gia.
Với sự ra đời và phát triển của công
nghiệp chế biến thực phẩm, trong nửa cuối thế kỷ 20 có thêm nhiều phụ gia thực
phẩm đã được giới thiệu, cả tự nhiên lẫn nhân tạo. Hiện nay, hơn 2500 phụ gia đã
được sử dụng trong công nghệ thực phẩm.
Để quản lý các chất phụ gia này và
thông tin về chúng cho người tiêu dùng thì mỗi loại phụ gia đều được gắn với một
con số duy nhất. Ban đầu các số này là các "số E" được sử dụng ở châu Âu cho tất
cả các phụ gia đã được chấp nhận. Hệ thống đánh số này hiện đã được Ủy ban mã
thực phẩm (Codex Alimentarius Committee) chấp nhận và mở rộng để xác định cho cả
thế giới tất cả các phụ gia thực phẩm, không liên quan đến việc chúng có được
chấp nhận sử dụng hay không.
Danh sách các nhóm chất phụ gia thực
phẩm
TT
|
Nhóm phụ gia thực
phẩm
|
1
|
Các chất bảo
quản (servatives)
|
2
|
Các chất chống đóng vón (Anticaking
agents)
|
3
|
Các chất chống ô xy
hoá (Antioxydants)
|
4
|
Các chất chống tạo bọt (Antifoaming
agents)
|
5
|
Các chất điều chỉnh độ chua (Acidity
regulators)
|
6
|
Các chất điều vị (Flavour
enhancers)
|
7
|
Các hương
liệu (Flavours)
|
8
|
Các chất làm đặc và tạo gel (Thickeners, gelling
agents)
|
9
|
Các chất làm rắn chắc (Firming
agents)
|
10
|
Các
men (Enzymes)
|
11
|
Các phẩm
màu (Colours)
|
12
|
Các chất nhũ
hoá (Emulsifiers)
|
13
|
Các chất ổn
định (Stabilizers)
|
14
|
Các chế phẩm tinh bột (Modified
starches)
|
15
|
Chất ngọt nhân tạo (Artificial
Sweeteners)
|
16
|
Các chất tạo phức kim loại hoà
tan (Sequestrants)
|
1.2. Chất điều
vị
Chất điều vị (flavor enhancer) là một
trong các nhóm chất phụ gia được phép sử dụng trong thực phẩm giúp điều hòa, làm
tăng vị ngon của món ăn.
Theo Quyết định số 3742
/2001/QĐ-BYT ra ngày 31 tháng 8 năm 2001 của Bộ trưởng Bộ Y tế, danh mục các
chất điều vị được phép sử dụng trong thực phẩm như sau:
STT
|
Tiếng
Việt
|
Tiếng
Anh
|
620
|
Axit
glutamic (L(+)-)
|
Glutamic
Acid (L(+)-)
|
621
|
Mononatri
glutamat
|
Monosodium
Glutamate
|
622
|
Monokali
glutamat
|
Monopotassium
Glutamate
|
623
|
Canxi
glutamat
|
Calcium
Glutamate
|
626
|
Axit
guanylic
|
Guanylic
Acid
|
627
|
Đinatri guanylat
|
Disodium Guanylate
(mới được bổ
sung)
|
630
|
Axit
inosinic
|
Inosinic
Acid
|
631
|
Đinatri inosinat
|
Disodium Inosinate
(mới được bổ
sung)
|
636
|
Maltol
|
Maltol
|
637
|
Etyl
maltol
|
Ethyl
Maltol
|
Trong số các chất điều vị trên, có ba
chất rất thường xuyên được sử dụng trong chế biến thực phẩm. Đó là chất điều vị
621 – monosodium glutamate (bột ngọt), chất điều vị 627 – disodium guanylate và
chất điều vị 631 – disodium inosinate. Tuy nhiên, nhiều người trong chúng ta vẫn
còn khá xa lạ và chưa nhận biết hết về chúng dù vẫn tiếp xúc hàng ngày. Vậy
những chất kể trên là những chất gì, được sử dụng cho mục đích gì, ý kiến của
các chuyên gia dinh dưỡng và thực phẩm về các chất đó ra sao? Xin mời cùng tôi
bước vào nội dung của các chương sau đây.
CHƯƠNG 2
: BỘT
NGỌT
2.1. Bột ngọt là
gì?
Bột ngọt (hay mì chính) là muối natri
của axit glutamic, một trong hơn 20 loại axit amin để kiến tạo nên protein cơ
thể, cần thiết cho sự tăng trưởng, chuyển hóa thần kinh và chức năng của não bộ
con người.
- Tên hóa học:
+ Theo tiếng Việt là Natri
glutamat.
+ Theo tiếng Anh là Monosodium
glutamate monohydrate, viết tắt là MSG.
+ Các tên IUPAC: 2-aminopentanedioic
acid, 2-aminoglutaric acid,
1-aminopropane-1,3-dicarboxylic
acid
- Tên quốc tế và cộng đồng châu Âu: INS
621, EEC 621 (thường gọi là chất điều
vị 621). Bột ngọt chính là
chất điều vị 621.
- Công thức phân tử là:
C5H8NO4Na.
- Trọng lượng phân tử:
187,13.
2.2. Tính chất vật lí và
sự tồn tại của bột ngọt
a) Tính chất vật
lí
* Tinh thể
rắn dạng que, không màu, không mùi, không dính vào nhau, rời rạc, tan dễ dàng
trong nước, tan vừa phải trong cồn.
* Vừa có ngọt hoặc hơi
mặn.
* Nhiệt độ nóng chảy 232
°C
* Độ tan trong nước 74
g/ml
b) Sự tồn tại của bột
ngọt
v Bột
ngọt tự nhiên:
Theo Hội khoa học kĩ thuật an toàn vệ
sinh thực phẩm Việt Nam thì: bột ngọt có sẵn trong các thực phẩm tự nhiên như
trong thịt, cá, sữa (kể cả trong sữa mẹ) và trong rau quả như cà rốt, đậu,
ngô... Trong khoảng 100g cà chua hiện hữu 0,14g bột ngọt; 0,044g/100g thịt gà;
0,043g/100g tôm. Cơ thể con người cân nặng từ 60kg đến 70kg, thì lượng protein
chiếm từ 14 đến 17% trong đó có khoảng 1/5 là bột ngọt.
v Bột
ngọt sản xuất
Bột ngọt được sản xuất thông qua quá
trình lên men (tương tự như lên men bia, giấm, nước chấm...) từ các nguyên liệu
tự nhiên như mật mía đường, tinh bột ngũ cốc. Người ta thường dùng các loại như
mía, khoai mì, sắn, ... để làm nguyên liệu chế biến bột ngọt.
2.3. Qui trình sản xuất
bột ngọt
2.3.1. Nguyên liệu
Để lên men sản xuất axit glutamic,
người ta dùng nguyên liệu chủ yếu là dịch có đường, hoặc rỉ đường, hoặc các
nguồn nguyên liệu tinh bột đã qua giai đoạn đường hóa. Khoai mì là nguyên liệu
tinh bột được sử dụng nhiều nhất hiện nay. Ngoài ra còn có các nguồn dinh dưỡng
bổ sung như muối amôn, photphat, sulfat, biotin, vitamin B…
Trong thực tế sản xuất, người ta dùng
rỉ đường làm môi trường lên men thay cho cao bắp. Rỉ đường thường pha loãng đến
13 – 14% và thanh trùng trước khi lên men. Nếu là nguyên liệu chứa tinh bột, thì
tinh bột phải được thủy phân (quá trình dịch hóa và đuờng hóa) nhờ enzym a -b-
amylaza rồi sau đó mới bổ sung thêm dinh dưỡng vào môi trường lên
men.
2.3.2. Chủng vi sinh
Tham gia vào quá trình lên men sản xuất
axit glutamic, chủng vi sinh thường sử dụng là: Corynebacterium Glutanicum,
Brevibacterium Lactofermentus, Micrococus Glutamicus; nhưng chủ yếu nhất vẫn là
chủng Corynebacterium Glutamicum (loại vi khuẩn này đã được nhà vi sinh vật Nhật
Bản Kinosita phát hiện từ 1956, có khả năng lên men từ tinh bột, ngô, khoai,
khoai mì để tạo ra axit glutamic).
Giống vi khuẩn thuần khiết này được lấy
từ ống thạch nghiêng tại các cơ sở giữ giống, sau đó được cấy truyền, nhân sinh
khối trong môi trường lỏng (như đã nói ở phần trên). Khối lượng sinh khối đuợc
nhân lên đến yêu cầu phù hợp cho quy trình sản xuất đại trà. Trước khi nhân,
cấy, môi trường lỏng phải được thanh trùng bằng phương pháp
Pasteur.
Chủng vi khuẩn giống phải có khả năng
tạo ra nhiều axit glutamic, tốc độ sinh trưởng phát triển nhanh, có tính ổn định
cao trong thời gian dài, chịu được nồng độ axit cao, môi trường nuôi cấy đơn
giản, dễ áp dụng trong thực tế sản xuất.
2.3.3. Kỹ thuật sản xuất axit glutamic
và bột ngọt
Axit glutamic sản xuất bằng phương pháp
lên men vi khuẩn, với nguyên liệu là đường. Quá trình này được xúc tác nhờ hệ
enzym có sẵn trong vi khuẩn, chuyển hóa qua nhiều giai đoạn trung gian với nhiều
phản ứng khác nhau tạo ra nhiều sản phẩm phụ, và cuối cùng là sản phẩm axit
glutamic. Thực chất của quá trình này là đường được chuyển hóa (quá trình đường
phân theo Enbden – Meyerhoff), rồi sau đó thông qua chu trình Krebs của quá
trình hô hấp hiếu khí của vi khuẩn, sản phẩm axit glutamic được hình thành. Sự
hình thành axit glutamic phụ thuộc vào sự tích tụ axit a - xêtoglutaric trong tế
bào vi khuẩn, sự có mặt của NH3 và enzym xúc tác là
glutamat dehydrogenaza.
Phương pháp lên men vi khuẩn là phương
pháp được sử dụng rộng rãi hiện nay trên thế giới để sản xuất axit glutamic và
bột ngọt. Hàng năm, sản lượng bột ngọt cả thế giới sản xuất theo phương pháp này
khoảng 25 – 30 vạn tấn. Ở Việt Nam cũng có nhiều nhà máy sản xuất bột ngọt bằng
phương pháp lên men như VeDan, Ajino Moto, Việt Trì, Thiên
Hương…
Để sản xuất bột ngọt từ axit glutamic
bằng phương pháp lên men, quy trình công nghệ được triển khai theo các giai đoạn
sau:
· Chuẩn
bị dịch lên men: Môi trường lên men được chuẩn bị sẵn từ các nguyên liệu đường
hoặc tinh bột (như đã nêu ở phần trên) được thanh trùng kỹ trước khi cấy vi
khuẩn lên men glutamic vào.
· Giai
đoạn lên men: dung dịch nhân sinh khối vi khuẩn, dung dịch lên men được chuyển
vào các dụng cụ, thiết bị lên men, sau corynebacterium glutamicum vào, cho lên
men trong điều kiện thoáng khí, giữ ở nhiệt độ 32 – 370C trong thời gian 38 – 40
giờ. Kết thúc quá trình lên men, lượng acid glutamic có thể đạt 50 – 60g/
lít.
Trong thời gian lên men, pH sẽ chuyển
dần sang acid do sự hình thành axit glutamic do đó người ta thường bổ sung thêm
dinh dưỡng vào môi trường nguồn amoni (NH4Cl,
(NH4)2SO4, urê) để giữ ổn định độ pH cho vi
khuẩn hoạt động tốt.
Không được để điều kiện lên men là yếm
khí vì sản phẩm tạo ra sẽ là axit lactic. Để tạo thoáng khí, trong các thiết bị
lên men bố trí bộ phận khuấy trộn dịch với tốc độ V = 450 vòng/
phút.
· Tinh
sạch acid glutamic:
Kết thúc quá trình lên men, acid
glutamic được tạo thành cùng với một số tạp chất khác, do đó cần phải tinh chế
các tạp chất này ra khỏi dung dịch chứa acid glutamic. Phương pháp thường dùng
là nhựa trao đổi rezin. Nhựa trao đổi rezin có hai loại: rezin dương tính (mang
tính axit) và rezin âm tính (mang tính kiềm).
Dịch lên men có chứa axit glutamic và
tạp chất cho chảy qua cột nhựa (có chứa rezin) từ dưới lên với tốc độ 150 – 180
lít/ phút, thời gian chảy qua cột là 150 – 180 phút. Song song, người ta cho
dòng nước chảy qua cột cùng chiều với dung dịch lên men để rửa các vi khuẩn bám
vào bề mặt rezin. Giữ nhiệt độ trong cột trao đổi ion là 600 – 650C. Sau khi kết
thúc quá trình trao đổi ion, dùng NaOH 4 – 5% để tách axit glutamic ra khỏi cột
(tốc độ chảy NaOH là 5 – 6m/ giờ, lưu lượng 100lít/ phút).
Người ta có thể sử dụng than hoạt tính
để khử màu. Axit glutamic được thu bằng cách điều chỉnh pH = 3,2 rồi cô đặc dung
dịch và giảm nhiệt độ xuống 40 – 150C sẽ thu được tinh thể acid glutamic với
lượng 77 – 88% hoặc cao hơn.
· Sự
tạo thành bột ngọt:
Bột ngọt là muối natri của axit
glutamic, gọi là glutamat natri. Dùng NaOH 40% – 50% để trung hòa dung dịch axit
glutamic đến pH = 6,8, sau đó đem lọc, cô đặc, và kết tinh bằng phương pháp sấy
chân không ở nhiệt độ thấp sẽ thu được tinh thể bột ngọt màu trắng. Độ tinh
khiết của bột ngọt có thể đạt 99 – 99,6% mononatri glutamat.
2.4. Sự ra đời của bột
ngọt
Vị giác của con người, ngoài bốn vị đã
phát hiện là chua, ngọt, mặn, đắng; gần đây các nghiên cứu khoa học còn chứng
thực có thêm một vị thứ năm cơ bản nữa, đó là vị ngon-gọi theo
Tiếng Nhật là vị
Umami. Theo tiến sĩ Nguyễn
Thị Lâm, Phó viện trưởng Viện Dinh dưỡng quốc gia thì bột ngọt có vị
Umami.
Việc sử dụng bột ngọt đã có từ nhiều
thế kỷ trước trong nghệ thuật ẩm thực phương Đông. Cách đây khoảng 1500 năm, các
đầu bếp đã biết cho một lượng tảo biển vào súp để làm tăng đáng kể hương vị món
ăn nhưng họ hoàn toàn không biết rằng tảo chứa một lượng lớn glutamate (bột
ngọt) tự nhiên. Mãi đến năm 1860, Ritenhausen và Woft (Đức) đã xác định
được cấu tạo của axit glutamic và muối natri glutamat. Năm
1908, vị giáo sư người Nhật
Kikunae Ikedathuộc Đại
học Hoàng Gia Tokyo đã khám phá ra chất tạo nên vị ngọt thịt, đó chính là natri
glutamat.
Chất này đã từng được chiết suất thành
công từ tảo biển và ông đặt tên cho thương phẩm là Ajinomoto, theo
tiếng Nhật nghĩa là “tinh chất của vị ngọt”. Năm 1909, Giáo sư Ikeda và
dược sĩ Saburosuke Suzuki mở một công ty chuyên kinh doanh bột ngọt với cái tên
Ajinomoto. Đến năm 1933, sản xuất bột ngọt tại Nhật Bản đã đạt đến 4500 tấn/năm.
Bột ngọt trở thành gia vị quan trọng, nhất là tại các nước phương
Đông.
Năm 1920, Trung Quốc cũng sản xuất
được bột ngọt. Có năm hãng ViTsin của Trung Quốc sản xuất tới 200 tấn
bột ngọt/năm. “Mì chính”, tên gọi chệch theo tiếng Quảng Châu xuất hiện từ lúc
đó.
2.5. Bột ngọt và sức
khỏe con người
Bột ngọt không có kết cấu màu hoặc mùi
vị đặc trưng nên được dùng trong nhiều món ăn và làm tăng cường hương vị gốc một
cách tự nhiên. Khi pha vào món ăn, bột ngọt tan trong nước, ngấm vào thức ăn và
làm cho thức ăn thêm đậm đà mà không thay đổi màu lẫn mùi vị. Bột ngọt giúp gia
tăng hương vị tự nhiên của thực phẩm chứa nhiều chất đạm như cá, thịt... Nó còn
kết hợp tốt với vị mặn và chua, nhưng không có tác dụng gì với vị ngọt và
đắng.
Một thời, những thứ gì thuộc về “của
hiếm, của độc” đã từng được ví là “Mì chính cánh”. Nhưng khoảng gần chục năm trở
lại đây, thuật ngữ này có vẻ không còn ý nghĩa nữa. Từ một gia vị không thể
thiếu trong mỗi bữa ăn, bột ngọt đột nhiên bị tẩy chay. Giờ đây, nhiều gia đình
đã đoạn tuyệt với bột ngọt, mặc dù mọi người vẫn khẳng định gia vị này làm cho
món ăn ngon hơn. Họ cho rằng, ăn bột ngọt sẽ tăng nguy cơ mắc các bệnh về thần
kinh cũng như bệnh ung thư. Cũng có người cho rằng, nếu cho bột ngọt vào món ăn
khi đang đun nấu thì sẽ làm tăng độ độc vốn có ở các thành phần hóa học của
nó... Người ta cảnh giác với bột ngọt, lâu dần dị ứng cả với vị ngọt của
nó.
2.5.1. Vậy bột ngọt có độc hại hay
không?
Trong một hội thảo tại Hà Nội do Viện
Dinh dưỡng tổ chức, các chuyên gia thuộc ủy ban Kỹ thuật Glutamate quốc tế cho
biết: bột ngọt có thể bị
biến đổi thành chất gây đột biến gen khi thực hiện thí nghiệm trong hai giờ đồng
hồ ở nhiệt độ 3000C. Nhưng chúng ta nên nhớ rằng: không chỉ bột
ngọt bị biến đổi mà ở nhiệt độ này, các thành phần thực phẩm tự nhiên như
protein cũng đều bị biến đổi thành chất gây đột biến gen, các nguyên liệu thực
phẩm bị nấu ở nhiệt độ cao cũng bị cháy thành than. Tuy nhiên, ở nhiệt độ sôi
của nước và thức ăn được chế biến hằng ngày, natri và Glutamat - hai thành phần
chính của bột ngọt vẫn là những chất ổn định.
Hàng trăm cuộc thí nghiệm toàn diện
trên động vật và cả cơ thể người được thực hiện bởi các viện nghiên cứu hàng đầu
trên thế giới trong một thời gian dài đã đưa ra kết luận: “Bột ngọt đảm bảo an
toàn cho mục đích sử dụng đối với mọi lứa tuổi”, cụ thể như
sau:
- Ủy
Ban Chuyên gia về Phụ gia Thực phẩm (JECFA) của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và
Tổ chức Lương nông Quốc tế (FAO) công bố trong cuốn “Hướng dẫn sử dụng an toàn
các chất phụ gia thực phẩm” (Guide to the Safe Use of Food Additives) xuất bản
năm 1979 thì bột ngọt thuộc danh sách A1 liệt kê các phụ gia đã được Ủy Ban
JECFA hoàn toàn thông qua cho phép dùng an toàn (fully cleared) với liều dùng
hàng ngày chấp nhận được là 0-120mg/kg. Có nghĩa với thể trọng người bình thường
50kg thì mỗi ngày có thể sử dụng khoảng 6g bột ngọt.
- Năm
1991 uỷ ban Khoa học về thực phẩm của Châu Âu tái khẳng định bột ngọt an toàn và
có thể dùng hàng ngày.
- Năm
1992 báo cáo từ hội đồng của vụ Khoa học thuộc hiệp hội Y tế Mỹ khẳng định dưới
bất kỳ hình thức nào cũng không chứng minh được nó là mối nguy hại đáng kể đối
với sức khoẻ.
- Năm
1995 báo cáo được FDA uỷ quyền của hiệp hội Thực nghiệm sinh học liên bang
(FASEB) xác nhận các đánh giá về an toàn của các uỷ ban đã nêu, nhưng cho rằng
một tỷ lệ chưa rõ dân số có thể dị ứng với bột ngọt và phát triển thành một hội
chứng phức tạp khi tiêu thụ hơn 3g bột ngọt thuần.
- Năm
2002 một báo cáo phát hiện chuột được nuôi theo chế độ dinh dưỡng bổ sung từ 10
– 20% bột ngọt tinh khiết bị thoái hoá võng mạc, có thể do sự dồn tụ của muối
glutamate trong pha lê dịch. Tuy nhiên, một lượng glutamat đó cao hơn rất nhiều
so với lượng bột ngọt sử dụng làm gia vị thực phẩm.
- Ở
các nước trên thế giới:
+ Tại Hoa kỳ: bột
ngọt được các cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ đưa vào danh sách các
gia vị thực phẩm được phép sử dụng. Bột ngọt được coi là an toàn cho mục đích sử
dụng và được xem là một thành phần thực phẩm phổ biến như muối, tiêu, giấm, bột
nở.... và không quy định liều dùng hàng ngày (Theo tài liệu Code Federal
Regulation Part 182 - 1994. FDA - US )
+ Tại Pháp: Bột
ngọt được coi là an toàn và cũng không quy định liều dùng hàng ngày. (Theo tài
liệu Réglementation des produits qualité - Repression des fraudes 1991 et
modifié 6/1993).
+ Tại Thái Lan:
liều dùng hàng ngày tùy theo yêu cầu (As required).
+ Tại các nước Châu Á
khác: Malaysia, Philippin, Nhật, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc đều coi bột
ngọt là an toàn và không quy định liều dùng hàng ngày.
+ Cộng đồng Châu
Âu ( EC) đặt mã số bột ngọt (MSG) là phụ gia thực phẩm số E621
và cho phép dùng không có khuyến cáo số lượng hàng ngày.
+ Ở Việt
Nam
- Bộ
Y Tế: bột ngọt được xem là một gia vị thực phẩm và đã được đưa vào danh mục các
phụ gia thực phẩm được phép sử dụng trong chế biến thực phẩm theo quyết định số
3742/2001 QĐ- BYT ngày 31/8/2001 của Bộ Y Tế.
- Bộ
khoa học công nghệ và môi trường: bột ngọt được phép sử dụng như một phụ gia
thực phẩm trong chế biến thức ăn ở gia đình, tại các nhà hàng cũng như trong
công nghiệp chế biến thực phẩm (Báo cáo ngày 20/4/1995 của Tổng Cục tiêu chuẩn
đo lường chất lượng - Bộ khoa học Công nghệ và Môi Trường).
2.5.2. Bột ngọt có liên quan gì đến
“Hội chứng quán ăn Trung Hoa” không?
“Hội chứng quán ăn Trung Hoa” (Chinese Restaurant
SyndromesI) là cụm từ dùng để chỉ triệu chứng khó chịu nhất thời do bị dị
ứng khi ăn tại các quán ăn Trung Hoa. Họ cho rằng trong các thức ăn có nhiều bột
ngọt gây nên hiện tượng nóng
mặt, hoa mắt, khó chịu....
Năm 1968, bác sĩ Ho Man Kwok thuộc tổ
chức National Biomedial Research Foundation viết một bài báo cho chuyên san y tế
New England of Medecine như sau: “Tôi bị một hội chứng là mỗi khi đi ăn trong
một nhà hàng Tàu, đặc biệt là nhà hàng bán thức ăn Hoa. Hội chứng thường bắt đầu
diễn ra khoảng 15 – 20 phút sau khi ăn xong món đầu tiên, kéo dài khoảng hai giờ
đồng hồ mà không có các hậu quả để lại. Những triệu chứng nổi rõ nhất là bị tê
cứng phía sau gáy, dần dần lan toả ra hai cánh tay và lưng, bị uể oải và tim đập
nhanh…” Lời thuật này bắt đầu gây hoang mang về sức khoẻ trên khắp thế giới về
bột ngọt và từ “Hội chứng quán ăn Trung Hoa” ra đời từ ấy. Tuy nhiên, ông và các
cộng sự đã nghiên cứu và phát hiện ra rằng các triệu chứng trên có thể gây ra
bởi một số thành phần có trong nước tương. Nhưng triệu chứng này lại không xảy
ra khi sử dụng loại nước tương này ở nhà. Một vài nhận định rằng triệu chứng gây
ra có thể do rượu được sử dụng rộng rãi trong món ăn ở các nhà hàng Trung Quốc,
và các triệu chứng này tương tự như các triệu chứng do ảnh hưởng của rượu. Nhận
định khác lại cho rằng triệu chứng này gây ra bởi bột ngọt được sử dụng làm gia
vị chế biến trong các món ăn ở nhà hàng Trung Quốc. Và một khả năng khác là hàm
lượng muối cao trong các món ăn Trung Quốc có thể làm cao natri máu nhất thời,
gây nên hiện tượng giảm kali trong nội bào, tạo ra các triệu chứng tê cơ, hồi
hộp và có cảm giác yếu…
Còn theo tiến sĩ Kenny của trường Ðại
Học Y Khoa George Washington đã làm thí nghiệm đối chiếu lâm sàng về vấn đề này,
kết quả của thí nghiệm đã chứng minh: bột ngọt không hề liên
quan trực tiếp tới dị ứng. Nghiên cứu của ông còn đưa ra kết luận, ăn xong
uống nước cà chua và cà phê đen, cũng có thể gây nên khó chịu sau khi ăn một số
thực phẩm hoặc một số thành phẩm của thực phẩm nào đó, những thực phẩm này
thường là hạt tiêu, sôcôla, các loại sò hến và nhiều loại thành phần thực phẩm
khác.
Cho đến nay, dựa trên các nghiên cứu
khoa học đáng tin cậy, Ủy ban hỗn hợp về phụ gia thực phẩm (JECFA) của Tổ Y Tế
Thế giới (WHO) và
tổ chức Lương Nông (FAO) năm 1987, đã chính thức tuyên bố: Các nghiên cứu
đã không
thể chứng minh được rằng MSG (bột ngọt) là tác nhân gây ra các
triệu chứng của “Hội chứng quán ăn Trung Hoa”.
Trong thực tế đời sống hàng ngày ta
cũng có thể gặp một số người khi ăn cá biển, tôm, cua hay ghẹ, thịt gà, thịt bò
......cũng sinh ra dị ứng mẩn ngứa hoặc khó chịu. Đó cũng là do cơ địa mẫn cảm
của từng người dị ứng với một loại thực phẩm khác nhau. Nên không thể nói bột
ngọt là tác nhân gây ra toàn bộ “Hội chứng quán ăn Trung Hoa” đối với tất cả mọi
người khi chưa đủ chứng cứ chắc chắn.
v Qua
các quy định quốc tế và quốc gia có sử dụng bột ngọt (MSG), chúng ta nhận thấy
không có quốc gia nào cho bột ngọt là chất độc và cũng không có quốc gia nào cấm
sử dụng bột ngọt trong chế biến thực phẩm.
v Tuy
nhiên, cần xác định rõ bột ngọt chỉ là một phụ gia thực phẩm, điều vị an toàn
cần thiết (tương tự như dấm, tiêu, muối ăn...), bản thân bột ngọt không phải là
một chất dinh dưỡng có thể thay thế cho thịt, cá, trứng,
sữa....
2.5.3. Nên sử dụng bột ngọt với liều
lượng bao nhiêu là an toàn cho sức khỏe?
Độ độc cấp của MSG được tính
bằng đơn vị LD50 đối với chuột là 19,9 gam/kg thể trọng. Theo cách
tính này, đối với một người nặng 70kg, liều mì chính gây độc là
1,4kg. Đầu thập kỷ 70, JECFA - Ủy ban hỗn hợp về Phụ gia thực phẩm của Tổ chức Y
tế thế giới (WHO) và Tổ chức Lương nông (FAO) đã bắt đầu đánh giá tính an toàn
của bột ngọt và đưa ra quy định về liều lượng sử dụng hằng ngày:
từ 0-120mg/kg thể
trọng. Vào năm 1987, Hội nghị lần thứ 31 của JECFA đã tiến hành đánh giá
lại độ an toàn của bột ngọt và đưa ra kết luận “liều dùng không xác định”. Ở
Việt Nam, viện dinh dưỡng quốc gia (Bộ y tế) cho phép sử dụng bột
ngọt không quá 6g/ngày. Còn với trẻ em dưới 12 tháng
tuổi tuyệt đối không nên ăn bột ngọt.
PGS.TS Nguyễn Thị Lâm có bài viết về
việc sử dụng bột ngọt trên trang web của báo Tiền Phong
(http://www.tienphong.vn/) đăng ngày
thứ Tư, 11/02/2009, lúc 9 giờ 8 phút.
Theo Tiến sĩ: “Thực tế, không có khuyến cáo về liều sử dụng đối với mì chính,
cũng như không có khuyến cáo riêng nào đối với trẻ em. Có thể hiểu, liều dùng
hằng ngày không quy định, nghĩa là các nghiên cứu chưa tìm thấy mức liều lượng
sử dụng nào của mì chính có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của người sử dụng. Tuy
nhiên, là một thứ gia vị, cũng tương tự như sử dụng muối hay ớt, mì chính chỉ có
tác dụng tăng vị ngon khi được sử dụng ở liều thích hợp. Nếu quá nhiều, sẽ phản
tác dụng.”
PGS.TS Nguyễn Thị Lâm lưu ý thêm: “Khi sử dụng, nên nêm
mì chính lúc sắp hoàn thành món ăn. Trong mì chính có muối và vị ngọt, vì
vậy, với người cần giảm mặn (bệnh thận, cao huyết áp) sử dụng mì chính với lượng
phù hợp sẽ giúp tăng vị ngon, vị đậm của thức ăn, từ đó sẽ giảm được lượng mắm
muối sử dụng khi nấu. Mì chính không gây hại
cho sức khỏe, không nguy hại cho trẻ em và cũng không gây ung thư. Tuy nhiên,
chúng không có công dụng chữa bệnh. Cần sử dụng nó như là một gia vị, không nên
lạm dụng”.
2.5.4. Những thông tin khác về bột
ngọt
Mặc dù bột ngọt được cho là chất phụ
gia an toàn trong liều lượng cho phép, nhưng không phải vì thế mà ta có thể vô
tư sử dụng và “lờ đi” những tác hại nghiêm trọng đã được thông báo từ nhiều tài
liệu đáng tin cậy.
Chưa chắc khi ta cho nhiều bột ngọt vào
thức ăn sẽ làm thức ăn ngon hơn. Ngoài ra bản thân bột ngọt không có giá trị
dinh dưỡng; khi lạm dụng còn có nguy cơ gây hại sức khỏe.
Như chúng ta đã biết natri glutamat có
sẵn trong thức ăn hàng ngày. Một khẩu phần ăn dù đạm bạc cũng đủ cung cấp lượng
Na+ và glutamat cho cơ thể. Do đó, ăn bột ngọt không hề
giúp bổ não như lời đồn trước đây mà còn làm tăng thêm lượng các chất này trong
cơ thể. Trong bột ngọt, lượng natri chiếm khoảng 13% (khoảng 1/3 so với
muối ăn), ăn nhiều bột ngọt đồng nghĩa với ăn nhiều natri. Các ion natri
tập trung ở ngoài màng tế bào giữ chức năng thẩm thấu, đảm bảo sự ổn định của
lượng chất lỏng cũng như sự cân bằng giữa tính axit và tính kiềm của cơ thể. Khi
lượng ion natri tăng cao, sự cân bằng này sẽ bị phá vỡ dẫn tới lượng nước trong
tế bào tăng lên (làm ự nước), tăng trương lực của thành mạch, gây co mạch, tăng
sức cản ngoại vi, có thể làm tăng huyết áp hoặc béo phì. Còn glutamat là chất
dẫn truyền thần kinh kích thích có khắp nơi trong hệ thống thần kinh trung ương.
Do đó, nếu dùng bột ngọt quá nhiều có thể gây ảnh hưởng đến thần kinh, đau mỏi
đốt sống cổ, rối loạn hoạt động não, gây mất trí nhớ. Chưa kể gan và thận do phải làm việc cật lực để thải hồi các chất
độc này ra khỏi cơ thể, dẫn đến bị suy
yếu và gây nhiều rối loạn.
Theo kết quả báo cáo dài 350 trang
(hoàn thành ngày 31/7/1995) của hội Thử nghiệm sinh học liên bang Mỹ, những phản
ứng phụ do sử dụng bột ngọt là:
· Cảm
giác nóng ran như cháy khắp cổ, ngực và phần trước cánh tay.
· Tê
sau cổ và từ cánh tay trở lên
· Ngứa
ran khắp mặt, cổ, lưng và tay
· Nhức
đầu, buồn nôn
· Tức
ngực, khó thở
· Đau
tim, suy nhược
Năm 1996, Tiến sĩ Russell L. Blayclok
đã viết trong quyển: “Excitotoxins: The Taste that kills” về triệu chứng béo phì
và tổn thương não, giảm trí nhớ, bệnh Parkinson’s,…và nhiều bệnh khác từ việc sử
dụng nhiều bột ngọt. Một nghiên cứu khác của
giáo sư lâm sàng khoa tâm thần học Viện Ðại Học California Arthur D. Colman cũng
cho thấy, có khoảng 30% dân chúng bị những phản ứng nguy hại, khi ăn phải bột
ngọt. Chính phủ Hoa Kỳ cũng đã cảnh báo việc này cho người
dân. Nhiều lời khuyến cáo được đưa ra như: phụ nữ có thai và trẻ em dưới 6 tuổi
không nên dùng bột ngọt, còn người lớn thì tránh dùng chừng nào là tốt chừng ấy.
Các thực phẩm chế biến sẵn có chứa bột ngọt phải ghi rõ bên ngoài bao
bì,…
Theo thống kê thì Châu Âu và các nước
phát triển hầu như không sử dụng bột ngọt trong chế biến thực phẩm. Các nước sản
xuất nhiều bột ngọt chỉ để xuất khẩu ví dụ như Mỹ tiêu thụ nội địa 0,7% sản
lượng; Pháp 0,9%; Braxin 1% hay ngay tại Nhật (quê hương của bột ngọt) cũng chỉ
làm ra để xuất khẩu, chứ tiêu thụ nội địa chỉ 1,5% sản lượng. Người dân ở các
nước trên rất hạn chế hoặc không sử dụng bột ngọt trong nấu ăn. Họ chỉ chế biến
các nguyên liệu tươi từ tự nhiên.
Trong khi đó, ở Việt Nam, bột ngọt lại
đang “bành trướng”. Từ vài chục năm nay, bột
ngọt, bột canh luôn là bạn đường thuỷ chung của các nhà bếp, đặc biệt là ở các
nhà hàng, quán ăn Việt Nam. Bất kỳ món ăn nào của ta hiện nay cũng đều được nêm
cỡ 1 thìa cà phê bột ngọt. Nếu chú ý sẽ thấy các món ăn hướng dẫn trên ti vi,
trên báo đều khuyên nêm thêm khoảng 2 thìa cà phê chất ngọt ngào này. Ngay mì
gói, thứ đồ ăn quen thuộc cũng có tới 4 gam bột ngọt/ 1 gói. Cứ nêm, và nêm vô
tội vạ. Vì thế mà hiện nay, hai nhà máy chuyên sản xuất bột ngọt ở Việt Trì,
Vedan ở Đồng Nai và nhiều nhà máy lớn nhỏ khác ở Hà Nội, Sài Gòn cũng chưa cung
cấp đủ nhu cầu nội địa. Hàng năm, Việt Nam vẫn phải nhập khẩu bột ngọt từ Nhật,
Đài Loan, Hàn Quốc, Braxin, và nhất là bột ngọt 3 không (không nhãn, không hạn
sử dụng, và không xuất xứ nhà sản xuất) được từ biên giới Trung
Quốc. Việt Nam đang thật sự trở thành “bãi
thải” bột ngọt như nhiều lời báo động.
Thử làm một bài tính nhẩm: trung bình
một gia đình bốn người, một ngày dùng ít nhất khoảng 7 thìa cà phê bột ngọt cho
các món ăn của 3 bữa, ước tính bình quân 4gam/thìa. Nghĩa là, hàng ngày một
người dùng tới 7 gam bột ngọt, vượt quá giới hạn cho phép đến 15-20%. Vậy mà một
số người trong chúng ta vẫn cứ ung dung cho đó là liều dùng “bình
thường”.
2.6. Một số chú ý khi sử
dụng bột ngọt
Theo PGS.TS. Bùi Minh Đức - Phó Chủ
tịch Hội KHKT An toàn Thực phẩm Việt Nam thì khi sử dụng bột ngọt cần chú
ý:
· Bột
ngọt chỉ là một gia vị có tác dụng điều vị, do đó không nên dùng các loại gia vị
kể cả bột ngọt để thay thế cho các chất dinh dưỡng nói chung.
· Không
nên sử dụng bột ngọt hay các loại gia vị khác để che lấp những mùi vị phản ánh
tình trạng mất chất lượng của thức ăn như ôi, thiu, tanh, thối.
· Bột
ngọt chỉ có tác dụng điều vị tốt với các vị mặn, đắng và chua, nhưng lại không
ảnh hưởng đến vị ngọt nên trong sản xuất bánh kẹo nói chung, bột ngọt ít được sử
dụng.
· Nếu
sử dụng bột ngọt thì cần giảm bớt lượng muối cho vào.
CHƯƠNG 3 :
CHẤT ĐIỀU VỊ 627, CHẤT ĐIỀU VỊ 631
3.1. Chất điều vị 627 và chất điều vị
631 là gì?
3.1.1. Khái niệm
v Chất
điều vị 627 (E627) còn gọi là Disodium guanylate, hay sodium 5'-guanylate và
disodium 5'-guanylate; là muối có chứa hai gốc natri của guanosine
monophosphate(GMP).
v Chất
điều vị 631 (E631) còn gọi là Disodium inosinate, hay disodium 5'-inosinate,
hoặc sodium 5'-inosinate; là muối chứa hai gốc natri của axit
inosinic.
Hai chất này hiện được biết đến với tên
gọi: chất “siêu bột ngọt”.
3.1.2. Công thức phân tử, công thức cấu
tạo
· Công
thức phân tử của E627 là:
C10H12N5Na2O8P (Khối
lượng mol là 407.184 g/mol).
· Công
thức cấu tạo của E627
· Công
thức phân tử của E631 là:
C10H11N4Na2O8P (392.17
g/mol).
· Công
thức cấu tạo của E631
3.2. Lịch sử tìm ra chất điều vị 627,
631
Năm 1913, học trò của Tiến sĩ Ikeda là
ông Komada đã phát hiện ra tính chất đặc trưng của vị Umami trong Disodium 5’-
inosinate (E631) (IMP) là một chất có trong khô cá nhảy.
Nhiều năm sau ông Kuninaka và các cộng
sự lại khám phá ra một chất có hương vị Umami cực kỳ quan trọng trong loại nấm
Shiitake khô, đó là chất Disodium 5’-guanylate (E627) (GMP). Ông Kuninaka nhận
thấy, nếu trộn bột ngọt với 5’ribonucleotide thì sẽ có được một chất có độ ngọt
gấp 10 lần so với bột ngọt thông thường. Đó chính là siêu bột
ngọt.
Theo tài liệu “Sinh hóa ứng dụng” của
GS-TS Đồng Thị Thanh Thu - giảng viên Trường ĐH Khoa học tự nhiên (thuộc ĐH Quốc
gia TP.HCM) Từ năm 1960, loại siêu bột ngọt đã chính thức được giới thiệu và
tiêu thụ trên thị trường”.
3.3. Tác dụng của các chất điều vị
627, 631
Chất điều vị 627, 631 tuy xa lạ với
người tiêu dùng nhưng được sử dụng rất phổ biến trong công nghiệp chế biến thực
phẩm. GS-TS Bùi Minh Đức - nguyên Phó Chủ tịch Hội Khoa học và Vệ sinh an toàn
thực phẩm đã cho biết định nghĩa về hai chất 627 và 631 có trong cuốn Bách khoa
toàn thư thực phẩm Hoa Kỳ. Theo đó,
muối của hai chất trên có cùng vị với bột ngọt, thuộc nhóm bột ngọt, giúp làm
tăng độ ngọt hiệu quả hơn so với bột ngọt thông thường (621), đặc biệt là chất
điều vị 631. Nói cách khác, hai chất trên kết hợp với nhau tạo chất siêu bột
ngọt, tuy nhiên nó tạo vị ngọt dễ chịu và ít độc hại.
Cùng chung quan điểm này, PGS-TS Nguyễn
Thị Lâm cho biết: “Theo các tài liệu khoa học thì chính chất điều vị 627 và 631
là chất siêu ngọt có độ ngọt gấp 10 đến 15 lần bột ngọt thông thường. Nó còn tác
động lên trung ương thần kinh vùng cảm nhận thèm ăn, kích thích thèm ăn... Cứ
nói đến 2 chất này, những người làm công nghiệp thực phẩm đều biết ngay rằng đó
là chất siêu ngọt”.
· Disodium
inosinate (631) là loại phụ gia thực phẩm có công dụng điều vị, trợ lực với
monosodium glutamate (bột ngọt). Loại phụ gia này có xuất xứ từ thịt, cá, có thể
kích thích gây bệnh Gout. Thường không được dùng cho thực phẩm của trẻ
em.
· Disodium
guanylate (627), cũng là một phụ gia thực phẩm có tính điều vị nhờ có tác dụng
hiệp lực với bột ngọt. Disodium guanylate (627) là chất điều vị có xuất xứ từ cá
khô hay rong biển khô, sản phẩm phụ của disodium inosinate
(631).
Disodium inosinate (627) và disodium
guanylate (631) là hai chất điều vị không có chứa bọt ngọt, nhưng lại có tác
dụng cộng lực với axit glutamic tự do, nên thường được dùng chung với nhau. Chất
điều vị 627 và chất điều vị 631 là những phụ gia khá đắt tiền, nhưng điều đặc
biệt là chúng không có hiệu quả nếu không có bột ngọt đi kèm. Vì vậy, khi bạn
khám phá trên nhãn thực phẩm có các kí hiệu 627 và 631 mà không hề thấy bột
ngọt, chắc chắn là trong loại thực phẩm này có chứa axit glutamic (bột ngọt) ẩn
dưới một dạng khác.
Trong chế biến thực phẩm người ta cho
siêu bột ngọt này vào để làm tăng vị ngọt giả tạo của thịt, hay tạo ra một sản
phẩm hoàn toàn không có thịt nhưng lại có vị như nước hầm thịt. Ví dụ: trong các
món canh của các bếp ăn tập thể hay các quán cơm giá rẻ người ta chỉ dùng nước,
muối, bột ngọt và siêu bột ngọt (có trong bột nêm) để tạo ra nước canh như nước
hầm thịt. Nước mắm cũng chỉ có nước, muối, hương nước mắm và siêu bột ngọt. Lý
do là giá suất ăn quá thấp họ không thể hầm xương hay thịt và cũng không thể có
nước mắm thật được.
Siêu bột ngọt đặc biệt phổ biến trong
hạt nêm (hoặc bột gia vị), thường sử dụng trong các loại nước chấm, tất cả món
ăn chế biến sẵn (như mì ăn liền, các loại bánh snack, …), hay dùng để ướp thịt
và các món ăn khác trong các bếp ăn, nhà hàng. Siêu bột ngọt hoàn toàn không có
giá trị dinh dưỡng mà chỉ là chất điều vị, làm tăng cảm giác
ngọt.
3.4. Hạt nêm
Hạt nêm (hay còn
gọi là bột nêm): là loại phụ gia hỗn hợp chứa nhiều nguyên liệu. Trong đó thành
phần thường gặp là các chất điều vị: bột ngọt (chiếm khoảng 30% - 40%), chất
điều vị 627, 631. Hạt nêm mang nhiều hương vị khác nhau cho món ăn. Không giống
như bột ngọt có dạng hình que dài, hạt nêm có dạng hạt nhỏ, gần như tròn, hoặc
dạng bột, và thường có màu vàng nhạt.
Gần đây trên thị trường xuất hiện rất
nhiều sản phẩm hạt nêm được quảng cáo là “không bột ngọt”. Các nhà sản xuất đều
cố gắng nhấn mạnh sản phẩm của mình được chiết xuất từ các vật liệu tự nhiên như
xương ống, thịt hầm, sườn non, hạt sen tươi,... Tuy nhiên, nhìn kĩ vào thành
phần trên bao bì, ta thấy có chất điều vị 627, 631. Thử lướt mắt qua một số
sản phẩm hạt nêm của các nhãn hiệu nổi tiếng sau:
- Sản phẩm của Knorr: được quảng cáo là
“Knorr đảm đang”, có vị “tự nhiên hơn bột ngọt”. Trong khi đó thành phần trên
bao bì lại ghi là: “bao gồm muối, chất điều vị (621, 631,
627),…”.
- Tương tự, trong thành phần hạt nêm
thịt heo “Maggi Ngon Ngon” của Công ty Nestlé VN cũng có chất điều vị (621, 631,
627),… cùng với muối, đường, hương thịt heo tổng hợp... Hãng này cũng thuyết
phục người tiêu dùng với câu “Được làm từ thịt heo nguyên chất” và “Đậm đà vị
thịt”.
- Trên sản phẩm hạt nêm Aji-ngon của
Công ty Ajinomoto VN có ghi rõ ràng tên khoa học
của các chất cấu thành nên sản phẩm như chất điều vị 621 (mononatri glutamat),
chất điều vị 631& 627 (dinatri inosinat & dinatri guanylat) bên cạnh
muối, đường, nước cốt, bột thịt gà,…..
- Trên bao bì sản phẩm “Hạt nêm thịt
heo” được quảng cáo là “Làm từ thịt heo nguyên chất” mang nhãn hiệu Vedan của
Công ty Vedan VN cho thấy ngoài thành phần là muối, đường, tiêu trắng, ớt... còn
có các chất điều vị (621, 627, 631).
- Còn hạt nêm Vicook’s của Công ty TNHH
Vĩnh Nguyên mang dòng chữ “100% được chế biến từ thịt gà và thịt heo”. Thành
phần của Vicook’s cũng là chất điều vị (621, 631, 627),...
- Hoặc gần đây nhất là quảng
cáo “Hạt nêm không bột ngọt Chin-su” của
Công ty Cổ phần Công nghiệp - Thương mại Masan. Lời giới thiệu khá ấn tượng như: “Hạt nêm Không Bột Ngọt đầu tiên tại
Việt Nam”, “một sản phẩm bước ngoặt”, “CHIN-SU tự hào là hạt nêm đầu tiên Không
Bột Ngọt, từ sườn non và hạt sen tươi, đem đến hương vị thơm ngon, thanh ngọt
đặc trưng cho món ăn, giúp cả nhà thật sự yên tâm thưởng thức trọn vẹn bữa ăn
gia đình”. Trên nhãn của gói hạt nêm này in không dưới 4 lần
cụm từ “không bột ngọt” như một lời nhấn mạnh. Kèm theo đó là dòng chữ “đạt an
toàn vệ sinh thực phẩm của Bộ Y tế” khiến người tiêu dùng không thể không tin
tưởng. Nhưng trong thành phần hạt nêm cũng chứa chất điều vị 627, 631.
Các lời quảng cáo như “100% từ nước hầm
xương”, “ngon từ thịt, ngọt từ xương”, “tốt hơn cho sức khỏe”, “tốt hơn bột
ngọt”,... trên đã dẫn đến sự hiểu lầm cho người tiêu dùng. Có thể thấy mục đích
của việc quảng cáo này chính là đánh vào tâm lí ngại sử dụng bột ngọt của người
dân. Bột ngọt không hề là chất cấm trong thực phẩm nhưng một số doanh nghiệp lại
cố tình “thổi phồng”, làm người tiêu dùng hiểu sai về bột ngọt để chuyển sang sử
dụng những sản phẩm của họ. Rất nhiều người đã lựa chọn hạt nêm như thứ gia vị
hoàn toàn tự nhiên tốt cho sức khoẻ và dùng thoải mái cho trẻ
nhỏ.
Nhưng sự thật thì không phải vậy
Theo phân tích của các chuyên gia về
thực phẩm, nếu nói sản phẩm được làm từ thịt và xương thì không được phép có
chất Monosodium Glutamate (bột ngọt).
Mới đây, Viện Vệ sinh y tế công cộng
TP. HCM đã nhận xét nghiệm 3 mẫu hạt nêm của 3 nhãn hiệu bột nêm nổi tiếng và
phổ biến trên thị trường là Knorr, Maggi và Aji ngon. Kết quả cho thấy cả 3 mẫu
hạt nêm này đều có chứa Monosodium Glutamate (bột ngọt) với hàm lượng: Knorr
31,3g/100g, Maggi 28,6g/100g và Ajingon là 26,7g/100g. Như vậy, thành phần của
các loại hạt nêm này không chỉ hoàn toàn là các thành phần kết tinh từ nước hầm
xương, thịt như lời quảng cáo trên các phương tiện truyền thông và trên bao
bì.
Còn theo kết quả kiểm nghiệm của Trung
tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng 3, trong sản phẩm “Hạt nêm không bột
ngọt Chinsu”, hàm lượng monosodium glutamate (bột ngọt) chiếm
0,6%.
Một sự thật đáng ngại!
Bên cạnh đó, tất cả các bao bì của sản
phẩm hạt nêm trên thị trường hoàn toàn không có một thông tin rõ ràng rằng có
thành phần bột ngọt. Thay vào đó là các chữ chất điều vị (621,631,627) hoặc
Sodium Glutamate. Hoặc có sản phẩm hạt nêm ghi rất rõ không bột ngọt, nhưng
thành phần lại chứa chất điều vị (631, 627). Theo PGS.TS Nguyễn Thị
Lâm: “Chất điều vị 627 và
631 không chỉ là bột ngọt mà còn là chất siêu ngọt. Nếu sản phẩm nào ghi trong
thành phần có chất điều vị 627 và 631 mà nói là không có bột ngọt là gian
dối”.
Trong danh mục các chất phụ gia được
phép sử dụng cho thực phẩm ban hành kèm theo Quyết định số 3742/2001/QĐ ngày
31/8/2001 của Bộ trưởng Bộ Y tế không có 2 chất điều vị là 631 và 627 (Nhưng hai
chất này có trong danh mục của Ủy ban Tiêu chuẩn hóa thực phẩm quốc tế - Codex).
Trên nguyên tắc, các chất phụ gia không có trong danh mục của Việt Nam là không
được phép sử dụng ở Việt Nam.
Thế nhưng trên thực tế từ nhiều năm qua
chất siêu ngọt này được sử dụng rộng rãi trong sản xuất, chế biến thực phẩm ở
hầu hết các loại thực phẩm cần có độ ngọt của thịt, thậm chí ở các sản phẩm
không liên quan đến độ ngọt của thịt. Nhiều nhà sản xuất, chế biến thực phẩm đã
ém nhẹm việc sử dụng chất này, không xin phép, không khai báo trong thành phần
của thực phẩm, trong khi theo quy định là phải xin phép sử dụng và phải thông
báo trên nhãn hàng hóa. Như vậy với các sản phẩm sử dụng chất này mà không xin
phép làm sao biết họ cho vào thực phẩm với liều lượng bao nhiêu, có đáng tin cậy
không?
Kể từ sau vụ “Tự nhiên hơn bột ngọt”
của “Knorr Đảm đang” (cuối tháng 10/2005), đã có cuộc
họp của các chuyên gia tư vấn về vệ sinh an toàn thực phẩm. Sau đó, Bộ Y tế đã
quyết định cho phép sử dụng hai chất điều vị 627, 631 trong thực
phẩm.
3.5. Chất điều vị 627, 631 và sức
khỏe
Như đã nói ở trên, trong hạt nêm nào
cũng có hai chất điều vị 627, 631. Ảnh hưởng của hai chất đó đến sức khỏe con
người ra sao? Vấn đề này hiện đang rất được nhiều nhà khoa học cũng như người
tiêu dùng quan tâm.
Bác sĩ K. Ekelman và bác sĩ K. C.
Raffaele, Bộ Thực phẩm và thuốc của Hoa Kỳ, cho biết các nhà khoa học về độc
chất đang nghi ngờ khi hai chất Disodium 5’-Guanylate và Disodium 5’-Inosinate
kết hợp với nhau sẽ tạo ra rất nhiều độc chất mới có thể gây quái thai và gây
rối loạn chuyển hóa. Đồng thời các công trình nghiên cứu trên chuột đực và chuột
mang thai đã và đang tiến hành. Số liệu nghiên cứu được thông báo trên trang
web: http://www.inchem.org/documents/jecfa/jecmono/v32je06.htm.
Hiện nay hai chất điều vị 627, 631
(chất siêu ngọt) đã được Bộ Y tế nước ta cho phép sử dụng trong thực phẩm. Tuy
nhiên, cũng giống như bột ngọt, nó chỉ đơn thuần làm tăng độ ngon chứ không hề
có giá trị dinh dưỡng, do đó không nên lạm dụng.
PGS-TS Phan Thị Sửu, Viện Công nghệ
thực phẩm - Bộ Công nghiệp phát biểu: “Việc sử dụng chất điều vị là được phép
nhưng phải có giới hạn nhất định. Nếu cho vào bột nêm, viên canh, xúp thịt hoặc
bột gia vị thì bột ngọt chỉ được chiếm tỉ lệ 10g/1kg sản phẩm, tức 1% mà thôi.
Còn nếu hàm lượng bột ngọt tính theo khối lượng sản phẩm là 30%, theo tôi là quá
nhiều. Riêng hai chất 631 và 627 dù trong qui định không ghi cụ thể, nhưng theo
tôi, dù gì thì gì cũng không thể vượt hơn tỉ lệ mà bột ngọt được phép sử
dụng”.
Hội đồng chuyên viên tư vấn vệ sinh an
toàn thực phẩm của Bộ Y tế cũng khuyến cáo trẻ em dưới 12 tháng tuổi tuyệt đối
không nên ăn bột ngọt. Trong thành phần của hạt nêm có bột ngọt, do đó cũng
không nên sử dụng hạt nêm trong thức ăn cho trẻ nhỏ.
Quay lại với việc quảng cáo của một số
sản phẩm hạt nêm đã nêu trên. Chúng ta nhận thấy có hai điều mà người tiêu dùng
bị ngộ nhận từ chính sự tin tưởng vào các lời quảng cáo sai sự thật
đó.
_ Họ tin rằng trong hạt nêm không hề có
bột ngọt. Điều này thật đáng ngại cho những người bị dị ứng với bột ngọt, những
người phải kiêng bột ngọt do một số loại bệnh hoặc phụ nữ đang mang thai (đặc
biệt là 3 tháng đầu), các trẻ sơ sinh.
_ Với lời quảng cáo “món ăn không chỉ
đậm đà mà còn bổ dưỡng và tốt cho sức khoẻ...” đã khiến một số người tiêu dùng
lầm tưởng đây là dạng bột dinh dưỡng, có thể dùng thay thực phẩm như thịt,
xương, cá, tôm... Nhiều vị phụ huynh khi chế biến thức ăn cho trẻ nhỏ đã lạm
dụng hạt nêm. Có trường hợp, một người mẹ thấy con mình biếng ăn đã dùng nhiều
hạt nêm cho bột thêm đậm đà, ngọt hơn hẳn để con ăn được ngon miệng. Tuy nhiên,
sau một thời gian, đứa bé cứ còi cọc; đi khám thì các bác sĩ cho biết cháu bị
suy dinh dưỡng nặng.
Vì vậy, mong mỏi của nhiều người dân là
sản phẩm “có sao nói vậy, nói rõ, nói dễ hiểu, và quảng cáo trung thực”. Nếu nhà
sản xuất cứ “ăn nói” lập lờ gây sự hiểu lầm thì chính họ sẽ đánh mất niềm tin
nơi người tiêu dùng.
Một thực tế khác mà lâu nay chúng ta
không hề để ý là những năm gần đây, người dân đang chuyển sang dùng bột nêm thay
cho bột ngọt và muối ăn hàng ngày. Điều này có gì đáng lo ngại? Xin nhắc lại
rằng chất điều vị 627 chính là muối chứa hai gốc natri của axit guanylic, còn
chất điều vị 631 là muối chứa hai gốc natri của axit inosinic. Chúng tuy không
phải là bột ngọt, nhưng có tác dụng mạnh hơn bột ngọt (chứa nhiều gốc natri
hơn), đặc biệt là làm giảm lượng muối trong món ăn.
Theo Bác sĩ Phạm Ngọc Oanh - Trung tâm
Dinh dưỡng TP. HCM thì “mặc dù trong thành phần hạt nêm có muối nhưng chỉ là
muối bình thường, không phải muối iot. Khi sản xuất hạt nêm, buộc phải sấy khô ở
nhiệt độ cao làm iot bốc hơi hết”. Dùng nhiều bột nêm, ta phải giảm lượng muối,
kéo theo lượng iot cần thiết cho cơ thể sẽ bị thiếu hụt. Nếu muốn sử dụng hạt
nêm, chúng ta nên kết hợp liều lượng phù hợp với muối iot.
KẾT
LUẬN
Cho đến nay, bột ngọt và hạt nêm đã
được các nhà khoa học công nhận là an toàn trong liều lượng vừa phải. Bộ Y tế
nước ta cũng đã cho phép sử dụng các chất này trong chế biến thực
phẩm.
Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ rằng bột
ngọt, hạt nêm chỉ là gia vị giống như muối, mắm,...; dù làm cho thức ăn thêm hấp
dẫn và tạo cảm giác ngon miệng, nhưng chúng vẫn không thể thay thế thịt, cá và
các loại thực phẩm khác. Quá ỷ y vào sự thuận tiện mà lạm dụng chúng là điều
không hay, đôi khi còn gây tác dụng phụ khó lường.
Muốn đảm bảo dinh dưỡng cho những thành
viên trong gia đình thì các bà nội trợ nên chú ý bổ sung lượng thực phẩm đa
dạng, đầy đủ, cân đối. Theo lời khuyến cáo của các chuyên gia, chúng ta nên dùng
nước mắm để pha chế, nấu nướng; hạn chế sử dụng bột ngọt, hạt nêm và tuyệt đối
không dùng hai chất này cho trẻ ăn dặm.
Để thay thế hạt nêm trong nhà bếp,
chúng ta có thể mua các loại xương heo, bò, gà,... vào sáng sớm để xương còn
tươi, độ ngọt cao, thơm và an toàn vệ sinh. Hầm liên tục trên bếp nhiều giờ,
càng lâu càng ngọt. Nước cốt sau khi hầm cất vào tủ lạnh để dùng nhiều lần. Làm
theo cách này tuy hơi mất nhiều thời gian nhưng vẫn bảo đảm an toàn cho sức
khỏe.
Thiết nghĩ, những thông tin trung thực
về tác dụng của bột ngọt, hạt nêm nên được phổ biến, cập nhật thường xuyên trên
các phương tiện thông tin đại chúng. Điều này giúp cho người dân có cái nhìn
khoa học hơn về bản chất của hai loại gia vị trên, giảm bớt sự lo ngại quá đáng,
cũng như thận trọng hơn trong khi sử dụng.
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1. PGS.TS
Đỗ Đình Rãng (chủ biên) (2007), Hóa học hữu cơ (tập
3), NXB Giáo dục.
Các trang web Tiếng
Việt:
2. http://www.tienphong.vn/
3. http://vi.wikipedia.org/wiki/Mì_chính
4. http://tim.vietbao.vn/Chất_
điều_vị_621
5. http://vi.wikipedia.org/wiki/Phụ_gia_thực_phẩm
6. http://vietbao.vn/Suc-khoe/Kham-pha-bot-ngot/
7. http://vietbao.vn/Suc-khoe/Bot-ngot-Mi-chinh-co-an-toan-khong/55205347/250/
8. http://forum.bacsi.com/showthread.php?t=1282
9. http://www.xaluan.com/modules.php?name=News&file=article&sid=59933
10. http://hanoi.vnn.vn/gocyte/details.asp?topic=27&id=BT2160749689
11. http://www.thanhnien.com.vn/news/Pages/200840/20081001163207.aspx
12. http://teen.vno.vn/showthread.php?t=10085
13. http://www.visalco.com.vn/webplus/viewer.asp?pgid=3&aid=254
14. http://giadinh.net.vn/home/20081013082155343p0c1011/quang-cao-hat-nem-khong-co-bot-ngot-lua-doi-nguoi-tieu-dung.htm
15. http://www.directfood.net/bluediamond/history.asp
16. http://www.thankinhhoc.com/cochedk.htm
Các trang web Tiếng
Anh:
17. http://en.wikipedia.org/wiki/Disodium_inosinate
18. http://en.wikipedia.org/wiki/Disodium_guanylate
19. http://www.inchem.org/documents/jecfa/jecmono/v32je06.htm
20. http://www.healthymuslim.com/articles/rdtvs-msg-the-flavor-enhancer-linked-to-obesity-brain-damage-and-other-diseases.cfm
21. http://www.resourcesforlife.com/docs/item1225
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG 1 : GIỚI THIỆU
CHUNG
1.1. Chất
phụ gia thực phẩm
1.2. Chất
điều vị
CHƯƠNG 2 : BỘT
NGỌT
2.1. Bột
ngọt là gì?
2.2. Tính
chất vật lí và sự tồn tại của bột ngọt
2.3. Qui
trình sản xuất bột ngọt
2.3.1. Nguyên
liệu
2.3.2. Chủng
vi sinh
2.3.3. Kỹ
thuật sản xuất axit glutamic và bột ngọt
2.4. Sự
ra đời của bột ngọt
2.5. Bột
ngọt và sức khỏe con người
2.5.1. Vậy
bột ngọt có độc hại hay không?
2.5.2. Bột
ngọt có liên quan gì đến “Hội chứng quán ăn Trung Hoa” không?
2.5.3. Nên
sử dụng bột ngọt với liều lượng bao nhiêu là an toàn cho sức
khỏe?
2.5.4. Những
thông tin khác về bột ngọt
2.6. Một
số chú ý khi sử dụng bột ngọt
CHƯƠNG 3 : CHẤT ĐIỀU VỊ 627,
CHẤT ĐIỀU VỊ 631
3.1. Chất
điều vị 627 và chất điều vị 631 là gì?
3.1.1. Khái
niệm
3.1.2. Công
thức phân tử, công thức cấu tạo
3.2. Lịch
sử tìm ra chất điều vị 627, 631
3.3. Tác
dụng của các chất điều vị 627, 631
3.4. Hạt
nêm
3.5. Chất
điều vị 627, 631 và sức khỏe
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
This is a short description in the author block about the author. You edit it by entering text in the "Biographical Info" field in the user admin panel.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét