.jpg)
Trang
blog này được lập bởi chủ Quán BỌT TRÁI
CÂY với mục đích chia sẻ tài liệu về công nghệ thực phẩm
cho các bạn cùng khoa cũng như các anh, chị, em và các bạn yêu thích, quan tâm
hay tìm kiếm tài liệu về công nghệ thực phẩm.
NẾU
THẤY TÀI LIỆU CÓ ÍCH, MỜI CÁC
BẠN ĐẾN VÀ ỦNG HỘ QUÁN BỌT TRÁI CÂY ĐỂ CHÚNG TÔI CÓ THÊM KINH PHÍ DUY TRÌ HOẠT
ĐỘNG ĐĂNG TẢI TÀI LIỆU CHO MỌI NGƯỜI!
XIN CHÂN THÀNH CẢM
ƠN!
Quán Bọt Trái
Cây
Địa chỉ: 88/955E Lê Đức Thọ,
P.6, Gò Vấp,
TP.HCM
Hotline:
0935.355.169
Mail: bottraicay@gmail.com
Facebook: http://facebook/bottraicay
Web: http://bottraicay.blogspot.com/
Xem bản đồ đường đi clik vào
đây
3. Sản xuất sạch hơn là mục tiêu hướng tới của
doanh nghiệp.
3.1. Những khái niệm cơ
bản.
a. Khái niệm về sản xuất
sạch hợn
(SXSH)
Khái niệm về sản xuất sạch
hơn lần đầu tiên được UNEP giới thiệu vào năm 1989 (Cleaner Product) . Đây được
coi như câu trả lời cho câu hỏi đặt ra là: làm thế nào để ngành công nghiệp có
thể hoạt động theo hướng phát triển bền
vững.
SXSH có nghĩa là việc áp
dụng một cách có hệ thống các biện pháp phòng ngừa trong các quy trình, sản phẩm
hoặc dịch vụ nhằm mục tiêu tăng hiệu quả tổng thể. Điều này đến lượt mình lại
giúp cải thiện tình trạng môi trường, tiết kiệm chi phí, giảm rủi ro cho con
người và cho môi
trường.
_ Đối với
các quy trình sản xuất. SXSH bao gồm việc bảo quản nguyên liệu,
năng lượng, loại bỏ các nguyên liệu độc hại, giảm bớt số lượng và mức độ độc hại
của các chất thải gây ô nhiễm ngay từ giai đoạn trước khi chúng được thải ra môi
trường.
_ Đối với các sản phẩm.
SXSH chú trọng việc giảm bớt các tác động có hại trong suốt chu trình sản phẩm,
ngay từ khi khai thác các nguyên liệu, cho đến khi giao nộp sản
phẩm.
_ Đối với
các dịch vụ. Phương pháp phòng ngừa ô nhiễm môi trường bao gồm từ khâu thiết
kế, cải tiến việc quản lý nhà xuởng, đến khâu lựa chọn các loại đầu vào (dưới
dạng các sản
phẩm).
Các khái niệm khác như hiệu
quả sịnh thái, giảm thiểu chất thải hay phòng ngừa ô nhiễm đều có chung một mục
tiêu là loại trừ hay giảm thiểu ô nhiễm, chất thải ngay tại nguồn, nơi chúng
được sinh ra. Tuy nhiên, chiến lược SXSH khác ở chỗ đây là một hệ thống các
phương pháp, thủ tục đánh giá các nguyên nhân gây ra ô nhiễm, phát sinh chất
thải và phát triển các phương án có thể được áp dụng trên thực tiễn. Hệ thống
này được thiết kế một cách có bài bản, nhằm giải quyết các vấn đề môi trường cụ
thể. Hơn nữa, nội dung chiến lược SXSH còn bao gồm hệ thống quản lý SXSH được
xác định rõ ràng cho phép liên tục cải thiện tình hình kinh tế và môi trường của
đơn
vị.
Không nên nhìn nhận SXSH với
tư cách là chiến lược chỉ trong lĩnh vực môi trường, vì nó còn bao gồm trong đó
cả những nội dung kinh tế quan trọng. Trong bối cảnh của chiến lược này, chất
thải được coi là một loại "sản phẩm" có giá trị kinh tế âm. Mọi hoạt động làm
giảm mức tiêu thụ nguyên vật liệu, năng lượng, ngăn ngừa hoặc làm giảm bớt việc
phát sinh chất thải, đều có tác dụng nâng cao năng suất, đem lại lợi ích tài
chính cho doanh
nghiệp.
Cách tiếp cận theo kiểu
phòng ngừa còn có nghĩa rằng các vấn đề về môi trường phải được giải quyết trước
khi chúng có thể phát sinh. Tức là ngay từ khâu lựa chọn việc thực hiện các quy
trình, các loại nguyên vật liệu, mẫu thiết kế, phương tiện vận tải, dịch vụ,
vv... Các tiếp cận này giúp giải quyết có hiệu quả vấn đề tiết kiệm tài nguyên
vì rằng ô nhiễm không những chỉ làm xuống cấp môi trường, mà còn là dấu hiệu cho
thấy rõ tính kém hiệu quả của quy trình sản xuất hoặc quản lý. Trên thực tế SXSH
có nghĩa
là:
_ Tránh hoặc giảm bớt lượng
chất thải được sản sinh
ra;
_ Sử dụng có hiệu quả các
nguồn năng lượng và nguyên vật
liêu;
_ Sản xuất ra các sản phẩm
và dịch vụ có lợi cho môi
trường;
_ Giảm bớt lượng chất thải
xả vào môi trường, giảm chi phí và tăng lợi
ích.
b. Các nguyên tắc và các phương pháp
SXSH
Nguyên tắc cảnh giác. Nguyên tắc phòng ngừa không chỉ đơn giản là
làm thế nào để không vi phạm pháp luật, mà còn có nghĩa là bảo đảm để người lao
động được bảo vệ, không bị mắc các chứng bệnh khó chữa chạy, hoặc nhà máy tránh
được những tổn hại không đáng có. Nguyên tắc cảnh giác đòi hỏi giảm bớt một phần
sự can thiệp của con người vào môi trường. Điều này, đặt ra yêu cầu phải có sự
thiếtkế lại một cách căn bản hệ thống sản xuất và tiêu thụ trong ngành công
nghiệp, cải thiện nếp cũ vẫn tồn tại cho đến nay đó là vẫn chủ yếu dựa vào việc
tăng khối lượng sử dụng các nguồn nguyên vật liệu (Jackson Tim,
1993).
Nguyên tắc phòng chống. Nguyên tắc phòng chống cũng có tầm quan
trọng không kém, đặc biệt trong các trường hợp một sản phẩm hay một quy trình
công nghệ được sử dụng lại chính là nguyên nhân gây ra những tổn hại về mặt môi
trường. Nguyên tắc phòng chống được sử dụng nhằm tạo ra những thay đổi ngay từ
những khâu đầu tiên của hệ thống sản xuất hoặc tiêu dùng. Bản chất "phòng chống"
của SXSH đòi hỏi phải có cách tiếp cận mới trong khi cân nhắc các mẫu sản phẩm,
nhu cầu tiêu dùng, các mô hình tiêu thụ nguyên vật liệu, và thực tế là đòi hỏi
phải có cách tiếp cận hoàn toàn mới đối với toàn bộ cơ sở vật chất của hoạt động
kinh tế ( Jackson Tim,
1993).
Nguyên tắc tích
hợp. Tích hợp là việc áp dụng một cách nhìn tổng
hợp đối với toàn bộ chu trình sản xuất và phương pháp trong việc thực hiện ý
tưởng này, thông qua phân tích chu trình sống của sản phẩm. Một trong những khó
khăn khi thực hiện cách tiếp cận phòng chống là việc tích hợp cùng một lúc nhiều
biện pháp bảo vệ môi trường, qua nhiều ranh giới khác nhau của hệ thống. Theo
truyền thống, những quy định pháp lý của cách tiếp cận cuối đường ống thường
được áp dụng bằng cách tìm kiếm những biện pháp tích hợp nhằm giảm bớt nhu cầu
xả các chất thải vào môi trường, những biện pháp này sẽ tạo ra sự bảo vệ có tính
toàn diện cho môi trường với tư cách là một tổng thể (Jackson tim,
1993).
Có thể thực hiện SXSH bằng
cách áp dụng bí quyết công nghệ, cải tiến kỹ thuật, hoặc chỉ đơn giản bằng cách
thay đổi cách tư duy, quan điểm của mình. Nội dung thực tiễn của SXSH là những
biện pháp phòng ngừa sau
đây:
- Quản lý
nhà xưởng tốt: Những quy định hợp lý về quản lý và tác nghiệp nhằm ngăn ngừa
các chất ô nhiễm bị rò rỉ hoặc trào ra ngoài (ví dụ: Qui định thời gian biểu cho
việc bảo dưỡng thường xuyên, hoặc thực hiện các cuộc duy tu thiết bị theo định
kỳ) và bắt buộc thực thi các hướng dẫn về an toàn lao động hiện có (ví dụ: Thông
qua việc giám sát kỹ càng, hoặc bằng cách tập huấn,
vv...).
- Thay thế đầu
vào: Thay thế các vật liệu đầu vào bằng những vật
liệu khác ít độc hại hơn, dễ tái tạo hơn, hoặc thêm vào các vật liệu phụ gia (ví
dụ: Dầu bôi trơn, chất làm nguội máy móc, chất tẩy rửa, vv...) để tăng tuổi thọ
cho sản
phẩm.
- Kiểm soát tốt hơn đối với quy trình sản
xuất: Cải tiến quá trình làm việc, hướng dẫn sử
dụng máy móc và thực hiện việc ghi chép theo dõi đầy đủ quy trình công nghệ nhằm
đạt được mức hiệu quả sản xuất cao hơn, với mức phát thải thấp hơn và xả chất
độc hại ít
hơn.
- Thay đổi trang thiết bị: Thay đổi các trang thiết bị hoặc vật dụng
hiện có(Ví dụ: bằng cách bổ sung thêm vào dây chuyền các bộ phận đo lường hoặc
kiểm soát nhằm đạt được hiệu quả cao hơn, với mức phát thải thấp hơn và xả chất
độc hại ít
hơn).
- Thay đổi công nghệ: Thay thế công nghệ, thay đổi trình tự trong
dây chuyền sản xuất, hoặc cách thức tổng hợp, nhằm giảm thiểu chất thải và chất
gây ô nhiễm trong khi sản
xuất.
- Thay đổi
sản phẩm: Thay đổi các tính chất đặc trưng của sản phẩm, nhằm giảm thiểu tác
động độc hại của sản phẩm đó đối với môi trường, cả trước và sau khi sản phẩm
được đưa vào sử dụng, hoặc làm giảm thiểu ảnh hưởng của việc sản xuất loại sản
phẩm đó đối với môi
trường.
- Sử dụng năng lượng có hiệu
quả: Năng lượng là nguồn đầu vào có khả năng gây ra
các tác động môi trường rất đáng kể. Việc khai thác các nguồn năng lượng có thể
gây tác hại đối với đất, nước, không khí, và đa dạng sinh học, hoặc là nguyên
nhân làm phát sinh một số lượng lớn chất thải rắn. Những tác động môi trường
phát sinh từ việc sử dụng năng lượng có thể được giảm bớt bằng cách sử dụng năng
lượng một cách hiệu quả hơn, hoặc bằng cách thay thế nguồn năng lượng sạch hơn
như mặt trời, năng lượng
gió.
- Tái chế, tái sử dụng ngay tại
chỗ : Tái sử dụng các nguồn vật liệu bị thải ra
ngay trong quy trình sản xuất đó, hoặc sử dụng cho các mục đích khác ngay trong
phạm vi một doanh nghiệp hoặc công
ty.
c. So sánh SXSH và phương pháp cuối đường
ống.
Khái niệm SXSH hoàn toàn
khác về mặt bản chất so với khái niệm kiểm soát ô nhiễm cuối đường ống. Các công
nghệ kiểm soát cuối đường ống bao gồm việc sử dụng hàng loạt các kỹ thuật và sản
phẩm (các hoá chất) để xử lý chất thải, các nguồn phát thải khí và chất lỏng.
Các công nghệ này nhìn chung không làm giảm lượng chất thải phát sinh. Chúng chỉ
có thể giúp làm giảm độ độc hại, và trên thực tế chỉ trung chuyển ô nhiễm từ một
dạng này, sang một dạng khác mà thôi (ví dụ: Chất ô nhiễm không khí được chuyển
qua thành nước thải trong khi nước thải được phát ra lại có thể chuyển ô nhiễm
sang các chất thải
rắn).
Sự khác biệt chủ yếu giữa
biện pháp kiểm soát ô nhiễm và SXSH là ở việc xác định thời điểm tiến hành các
biện pháp này. Biện pháp kiểm soát ô nhiễm cuối đường ống được tiến hành sau khi
các chất thải ô nhiễm đã được phát sinh, nên còn gọi là biện pháp "phản ứng và
xử lý", trong khi đó SXSH là biện pháp chủ động, "biết trước và phòng ngừa".
Phòng bệnh bao giờ cũng tốt hơn chữa
bệnh.
Tuy nhiên, điều đó không có
nghĩa là các biện pháp cuối đường ống sẽ không còn cần thiết nữa. Bằng cách áp
dụng SXSH để đấu tranh với vấn đề ô nhiễm và chất thải, mức độ phụ thuộc vào các
giải pháp cuối đường ống có thể được giảm bớt và trong một số trường hợp có thể
dẫn đến loại bỏ hoàn
toàn.
Bảng 2.6. Những khác biệt chủ yếu giữa SXSH và các biện
pháp kiểm soát ô
nhiễm
SXSH
|
Kiểm soát ô nhiễm và quản lý chất
thải
|
Liên tục cải
tiến
|
1 giải pháp cho một vấn
đề
|
Tiến bộ theo hướng sử dụng
các quy trình khép kín hoặc theo chu
kỳ
|
Các quy trình sản xuất làm
phát sinh các phế liệu phát thải ra môi trường, tạo ra một đường ống với đầu vào
là nguyên vật liệu và đầu ra là chất
thải
|
Mọi thành viên trong cộng
đồng đều có vai trò của mình; sự cộng tác và phối hợp hết sức cần
thiết
|
Các giảipháp được thiết kế
bởi các chuyên gia, thường không gắn với thực
tiễn
|
Chủ động nhận biết và tìm
cách phòng chống ô nhiễm và chất
thải
|
Có những phản ứng thụ động
đối với ô nhiễm và chất thải sau khi chúng đã phát sinh
ra
|
Loại trừ các vấn đề môi
trường ngay từ nguồn phát
sinh
|
Các chất ô nhiễm được kiểm
soát bằng các thiết bị và phương pháp xử lý chất
thải
|
Phát triển những phương
pháp, quan điểm và các kỹ thuật quản lý mới, thúc đẩy tiến bộ khoa học-kỹ
thuật
|
Chủ yếu dựa vào những cải
tiến kỹ thuật đối với những công nghệ hiện đã tồn
tại
|
d. Tại sao phải có SXSH
?
SXSH giúp làm giảm mức độ ô
nhiễm và rủi ro cho môi trường. Việc sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn nguyên
vật liệu và tối ưu hoá các quy trình sản xuất sẽ làm giảm bớt chất thải và ô
nhiễm phát sinh; điều này sẽ làm cho chi phí sản xuất giảm xuống. Việc chú trọng
bảo vệ sức khoẻ và an toàn lao động cũng đem lại các hiệu ứng tích cực đối với
năng suất lao động, giúp làm giảm tai nạn lao
động.
SXSH có vai trò đặc biệt
quan trọng tại các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi vì
tại các nước này, việc tiêu thụ nguyên vật liệu và năng lượng tại các xí nghiệp
còn ở mức tương đối
cao.
e. Lợi ích của SXSH là gì
?
Việc áp dụng rộng rãi các
biện pháp SXSH có thể mang lại những lợi ích rất đáng kể, ví
dụ:
• Cải thiện
tình trạng môi trường: SXSH có thể tạo ra những cải thiện về môi trường mà
các văn bản pháp quy không bao trùm hết, như làm tăng tính hiệu quả của việc sử
dụng nước hoặc năng lượng, giảm thiểu chất thải, giảm lượng nguyên vật liệu độc
hại được đưa vào sử dụng, giảm mức sử dụng các nguồn tài nguyên, duy trì chất
lượng đất trồng, giảm mức ô nhiễm do hiệu ứng nhà kính. SXSH còn giúp cải thiện
điều kiện làm việc và bảo vệ tốt hơn chất lượng nước và không
khí.
• Giảm chi
phí tổng thể: SXSH giúp làm giảm mức phát sinh chất thải, mức tiêu thụ
nguyên vật liệu, năng lượng và nước. Vì thế các chi phí cũng giảm đi đáng kể.
Các hoạt động bảo vệ môi trường không còn là những chi phí bổ sung như trước
nữa. Nếu tính toán một cách tổng thể, thì SXSH giúp làm giảm các chi phí này,
nhờ việc giảm bớt chi phí đầu vào như chi phí cho nguyên vật liệu, năng lượng,
chi phí để xử lý chất
thải.
Việc tránh làm phát sinh chất thải giúp tiết
kiệm tiền bạc vì nó đã loại trừ được những chi phí xử lý hoặc đổ bỏ chất thải,
cũng như những chi phí để mua nguyên vật liệu hoặc dịch vụ bị biến thành phế
thải trong quá trình sản xuất.
Một số dự án SXSH đã giúp
phục hồi lại những phế phẩm có giá trị, có thể được sử dụng hoặc đem bán, và vì
thế sẽ giúp làm tăng lợi ích kinh tế cho người sản
xuất.
• Tăng năng
suất: Hiệu quả và năng suất các hoạt động của một công ty có thể được cải
thiện bằng nhiều cách thông qua ứng dụng SXSH. Những lợi ích chủ yếu SXSH mang
lại
là:
- Độ tin cậy cao hơn của
thời gian biểu và các kế hoạch ngân
sách.
- Sử dụng có hiệu quả hơn
các nguồn nhân tài vật
lực.
- Cải tiến điều kiện làm
việc.
- Giảm bớt các nghĩa vụ pháp
lý.
• Tăng lợi
thế so sánh: áp dụng SXSH sẽ làm tăng lợi thế so sánh của các công ty. Các
công ty có hiện trạng môi trường tốt và các sản phẩm đáp ứng các tiêu chuẩn môi
trường sẽ có lợi thế trên thị trường. Lý do là ở chỗ hiện nay người tiêu dùng
ngày càng ý thức rõ ràng hơn về vấn đề môi
trường.
• Môi trường
liên tục được cải thiện: Có lẽ đây là lợi ích quan trọng nhất; áp dụng SXSH
bảo đảm rằng môi trường được cải thiện một cách liên tục; điều này chính là yếu
tố căn bản để đạt được phát triển bền vững. Việc công nhận rằng mọi hoạt động
đều ẩn chứa trong mình tiềm năng cho việc cải thiện tình trạng môi trường cũng
là một trong những vấn đề không kém phần quan
trọng.
f. Cái gì không phải là SXSH
?
Hiện có rất nhiều các biện
pháp chống ô nhiễm hoặc kiểm soát chất thải được thực hiện chỉ sau khi ô nhiễm
hoặc chất thải đã phát sinh. Những biện pháp sau đây không thể được coi là sản
xuất sạch
hơn:
Tái chế ngoài phạm vi xí nghiệp
là biện pháp rất được ưa chuộng trong số những
biện pháp giải quyết chất thải, vì nó giúp tiết kiệm nguyên liệu và giảm lượng
nguyên liệu bị đổ bỏ sau đó. Tuy nhiên, việc vận chuyển chất thải và bản thân
quá trình tái chế có thể đe dọa ảnh hưởng sức khoẻ của người lao động hoặc gây ô
nhiễm cho môi trường. Nhìn chung, phương pháp này không đem lại hiệu quả sử cao
cho bản thân xí nghiệp thực hiện
nó.
Di chuyển các chất thải độc hại sang một môi
trường trung gian khác cũng không thuộc phạm trù các biện pháp SXSH.
Các hoạt động quản lý chất thải chủ yếu từ trước đến nay mới chỉ đơn giản là thu
gom các chất ô nhiễm và chuyển chúng từ một môi trường trung gian này đến một
địa điểm khác mà thôi. Ví dụ, các dung môi có thể được lấy ra khỏi nước thải
bằng cách sử dụng các chất hút bám các-bon được làm giảm. Tuy nhiên, để có thể
phân huỷ được lượng các-bon đó đòi hỏi phải sử dụng một loại dung môi khác hoặc
phải đốt, tức là phải chuyển chất thải vào môi trường không khí. Trong các
trường hợp này, việc chuyển chất thải độc hại từ môi trường này sang môi trường
khác là cách xử lý duy nhất. Trên thực tế, mục tiêu đặt ra thường là chuyển ô
nhiễm sang một môi trường khác ít bị kiểm soát hơn về mặt luật pháp mà
thôi.
Xử lý chất thải trước khi đổ bỏ nhằm làm giảm độ độc hại hoặc
làm giảm nhu cầu về địa điểm để đổ bỏ chất thải, nhưng không phải là loại trừ
chất gây ô nhiễm. Xử lý chất thải bao gồm các quy trình như: Giảm khối lượng,
pha loãng, giảm độ độc hại hoá chất gây ô nhiễm, nén thành khối, bọc vỏ, cô đặc
các chất độc hoặc nguy hiểm để giảm bớt khối
lượng.
Các công đoạn làm giảm khối
lượng (như rút bớt nước trong các chất thải) là những phương pháp xử lý chất
thải rất hữu dụng, nhưng chúng không giúp làm giảm bớt chất gây ô nhiễm. Ví dụ
phương pháp nén lọc và làm khô loại bùn đặc bị ô nhiễm do các chất kim loại nặng
trước khi đem đổ bỏ có thể làm giảm bớt hàm lượng nước trong bùn và vì thế làm
giảm khối lượng loại chất thải này, nhưng phương pháp này không làm giảm được
hàm lượng kim loại nặng chứa trong lớp bùn
đó.
Làm loãng thành phần chất thải để giảm bớt độ
độc hại và nguy hiểm. Phương pháp làm loãng được áp dụng đối với các
dòng chất thải sau khi ô nhiễm đã phát sinh và vì vậy không giúp làm giảm số
lượng tuyệt đối của các chất độc hại thải vào môi
trường.
g. Sản xuất sạch hơn: Lợi
ích và những rào
cản:
Có thể phân chia các cản trở
đối với việc áp dụng SXSH tại các doanh nghiệp thành 2 phạm trù như
sau:
• Các rào
cản trong nội bộ doanh
nghiệp:
- Thiếu thông tin và kiến
thức chuyên môn. Trong rất nhiều trường hợp, các công ty không có đủ cán bộ
chuyên môn và kỹ năng để áp dụng các phương pháp SXSH, hoặc không có đủ thông
tin về loại công nghệ cụ thể. Thông thường, họ vẫn quen nghĩ rằng bảo vệ môi
trường là những hoạt động tốn nhiều tiền
bạc.
- Nhận thức về môi trường
thấp;
- Các ưu tiên về cạnh tranh
trong kinh doanh, cụ thể là sức ép về các nguồn lợi có tính ngắn
hạn.
- Những khó khăn về tài
chính;
- Thiếu những mối giao lưu
giữa các doanh
nghiệp;
- Sự trì trệ của các nhà
quản
lý.
- Những khó khăn về nguồn
nhân
lực
• Các cản
trở từ bên
ngoài:
- Sự yếu kém của hệ thống
quy phạm pháp luật: Nếu các bộ phận quản lý nhà nước thực hiện tốt nhiệm vụ của
họ trong việc xác định những hành động phù hợp, thì các công ty đã không cần
phải gánh trách nhiệm lập kế hoạch quản lý tích hợp cho môi trường, thực chất
các cơ quan quản lý nhà nước chỉ giữ vai trò như những người chủ đạo đề ra các
quy định, các tiêu chuẩn cho môi
trường.
- Khó khăn trong việc tiếp
cận các công nghệ
SXSH.
- Khó khăn trong việc tiếp
cận các nguồn tài chính từ bên
ngoài.
- Hiện đang tồn tại rất
nhiều động cơ tiềm tàng cho việc áp dụng SXSH. Các động cơ này cũng có thể được
phân chia thành 2 dạng như
sau:
• Các động
cơ bên trong (một công
ty).
- Hệ thống quản lý môi
trường và việc liên tục cải thiện môi
trường.
- Giới lãnh đạo về môi
trường của công ty: Tại những công ty có ban lãnh đạo thực sự cam kết với ý
tưởng áp dụng các phương pháp SXSH, thì chắc chắn sẽ gây được "hiệu ứng lan
toả", tức là các thành viên khác trong công ty cũng có cam kết mạnh hơn đối với
vấn đề môi
trường.
- Các báo cáo môi trường của
công ty: Làm báo cáo cũng có thể là một phương pháp hữu dụng để các công ty có
thể phổ biến các thông tin về hoạt động môi trường của họ đến các bên có liên
quan; và hơn thế nữa, các báo cáo còn có thể được sử dụng như một công cụ dự báo
nội bộ đối với
SXSH.
- Hạch toán môi trường: Có
nhiều hình thức hạch toán môi trường được áp dụng với mục đích làm giảm bớt vai
trò chủ đạo của các hệ thống hạch toán tài chính hẹp hòi hiện nay. Hạch toán môi
trường hiện đang được coi là lĩnh vực có tiềm năng lớn trong những đóng góp vào
không chỉ các thành tựu kinh doanh, mà còn cả cho phát triển bền
vững.
- Cải thiện về năng
suất.
• Các động cơ từ bên
ngoài:
- Đổi mới trong hệ thống các
văn bản quy phạm pháp
luật.
- Các công cụ khuyến khích
kinh tế như thuế, các khoản trợ cấp, các giấy phép phát thải ô nhiễm, có thể
được áp dụng để đẩy nhanh tốc độ thực hiện SXSH. Các công cụ khuyến khích kinh
tế có thể mang tính tích cực như các khoản trợ cấp, giảm thuế, hoặc cũng có thể
dưới các dạng không được mong muốn như thuế hoặc phí môi
trường.
- Giáo dục và đào
tạo;
- Quan hệ giữa người mua-
người bán. Đặc biệt những công ty lớn thường hay áp đặt các sản phẩm hoặc quy
trình của mình cho các công ty khác, lợi dụng thế lực thị trường của mình để gây
ảnh hưởng đối với hành vi của các bên cung ứng đầu nguồn, cũng như đối với các
bên tiêu thụ ở cuối
nguồn.
- Các khoản vay lãi suất
thấp của các cơ quan tài
chính.
- Sự tham gia của cộng đồng:
Chế độ khen thưởng chính thức có thể là một trong những phương pháp để các công
ty "trình làng" rằng họ đã áp dụng SXSH. Tính chất công khai của việc khen
thưởng cũng có thể là một dạng công cụ giáo dục nhằm nâng cao nhận thức công
chúng.
- Các công cụ khuyến khích
trong thương mại quốc tế: Trong nền kinh tế ngày càng được toàn cầu hoá mạnh
hơn, sức mạnh ảnh hưởng của các công ty thương mại lớn đối với các quy trình sản
xuất kinh doanh của các công ty chắc chắn sẽ ngày càng tăng. Sức mạnh này sẽ
được thể hiện một cách chính thức thông qua những yêu cầu cụ thể, cũng có thể
được thể hiện một cách phi chính thức thông qua những lựa chọn của người tiêu
thụ tại các thị trường trong một
vùng.
h. Vai trò của các tổ chức
quốc tế trong lĩnh vực
SXSH.
Có rất nhiều tổ chức quốc tế
đã có những hoạt động tích cực trong việc xúc tiến SXSH. Những hoạt động quan
trọng nhất sẽ được miêu tả ngắn gọn dưới
đây.
- Chương trình môi trường
của Liên hiệp quốc "Công nghiệp và môi trường" (UNEPIE) hiện đang hoạt động với
tư cách là bên xúc tác cho việc thực thi mục tiêu tập hợp giới công nghiệp, các
tổ chức chính phủ và phi chính phủ cùng hành động để tìm ra các hình thức phát
triển công nghiệp theo hướng có lợi cho môi trường. UNEPIE đang tìm kiếm biện
pháp
nhằm:
• Xác định và khuyến khích
việc đưa các tiêu chí môi trường vào phát triển công
nghiệp.
• Giúp đỡ xây dựng các chính
sách và chiến lược phát triển công nghiệp bền vững, và tạo điều kiện thuận lợi
cho việc thực thi các chiến lược hay chính sách
này.
• Thúc đẩy thực hiện việc
bảo vệ môi trường thông qua việc áp dụng SXSH và các biện pháp chủ động
khác;
• Kích thích việc trao đổi
thông tin về các hình thức phát triển công nghiệp có lợi cho môi
trường.
UNEPIE đã xây dựng Tuyên
ngôn về SXSH, Tuyên ngôn này đã được công bố tại hội thảo quốc tế cấp cao lần
thứ 5 về SXSH tại Seoul năm
1998.
Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hiệp
quốc (UNIDO). Hoạt động quan trọng nhất của UNIDO trong lĩnh
vực SXSH là chương trình Trung tâm SXSH quốc gia. Đây là chương trình liên kết
giữa UNIDO và UNEP. UNIDO chịu trách nhiệm về quản lý chung, về cơ quan liên lạc
tại địa phương, về bảo đảm cung cấp các chuyên gia, đặc biệt là cho các hoạt
động trình diễn tại các ngành công nghiệp. UNEP chịu trách nhiệm về cung cấp các
chuyên gia, về đào tạo, thông tin, phân tích chính sách. Mục tiêu của Chương
trình là thành lập các Trung tâm quốc gia vế SXSH, nơi sẽ thực hiện 6 dạng hoạt
động, cụ thể là: Nâng cao nhận thức, đào tạo, đánh giá trong nội bộ xí nghiệp,
phổ biến thông tin, xúc tiến đầu tư và tư vấn chính
sách.
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
(OECD) đặc biệt tích cực trong việc thúc đẩy SXSH tại
các nước Trung và Đông Âu (CEEC) và các quốc gia mới độc lập (NIS). Công việc
này được thực hiện trong khuôn khổ của Chương trình hành động môi trường của
nhóm công tác chuyên trách về các nước CEEC/NIS (EAP) công tác này được thành
lập tại Hội nghị bộ trưởng "Môi trường cho châu Âu", với các thành viên là các
bộ trưởng môi trường. Hội nghị họp tại thành phố Lucerne, Thuỵ Sỹ năm 1993. Ban
giám đốc về môi trường của Tổ chức OECD giữ vai trò là Ban thư ký cho nhóm công
tác của chương trình. Một trong những mục tiêu chính của EAP trong lĩnh vực quản
lý môi trường trong các doanh nghiệp là tạo dựng được năng lực cơ bản cho việc
thực hiện SXSH tại CEEC/NIS. Năm 1998 văn bản báo cáo chính sách về quản lý môi
trường doanh nghiệp tại các nước CEEC/NIS đã được nhóm công tác đệ trình và đã
được thông qua tại Hội nghị bộ trưởng "Môi trường cho châu Âu" tại
Aarhees.
Hội đồng doanh nghiệp vì sự phát triển bền
vững thế giới (WBESD) là tổ chức liên kết của trên 140 công ty quốc
tế, cùng có chung một cam kết về phát triển bền vững, tức là cam kết về bảo vệ
môi trường, công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế. Xét theo nghĩa rộng, mục
tiêu của các doanh nghiệp, chính phủ và các tổ chức khác có quan tâm tới môi
trường và phát triển bền vững. WBCSD còn đặt ra nhiệm vụ khuyến khích các tiêu
chuẩn quản lý môi trường cao ngay tại các doanh nghiệp. WBCSD đã thực thi quan
điểm về hiệu quả sinh thái. Gần đây WBCSD đã bắt tay vào chuẩn bị thực hiện Pha
2 của "sáng kiến hiệu quả sinh thái châu Âu" (EEEI), là hoạt động nâng cao nhận
thức và xây dựng năng lực chuyên môn, nhằm xúc tiến hiệu quả sinh thái với tư
cách là quan điểm chỉ đạo trong chính sách và kinh doanh của tất cả các nước
thành viên châu
Âu.
Uỷ ban kinh tế châu Âu của Liên hợp quốc
(UN/ECE) đang tiến hành chương trình đánh giá thành tựu
môi trường (EPR) tại nhiều nước trên thế giới. Một trong những lĩnh vực được EPR
quan tâm là việc thực hiện các hoạt động SXSH tại các nước thuộc đối tượng đánh
giá. Hoạt động này đã cung cấp 1 cách nhìn tổng thể về hiện trạng và đưa ra
những khuyến nghị cho việc tiếp tục xúc tiến các hoạt động
SXSH.
3.2. Đánh giá tính khả thi đối với dự án SXSH
hơn.
Đối với bất cứ một dự án
SXSH nào khi đã được xác định cũng đều phải xem xét tính khả thi của nó, về cơ
bản tính khả thi đó được căn cứ vào ba đánh giá quan trọng, đó là đánh giá kỹ
thuật, đánh giá kinh tế và đánh giá môi
trường.
a. Đánh giá kỹ thuật.
Đánh giá kỹ thuật bao gồm có
2 phần liên quan chặt chẽ với
nhau.
Thứ nhất là đánh giá xem xét
liệu phương án này có thể đưa vào áp dụng trong thực tế được hay không, chẳng
hạn như trang thiết bị có hay chưa, ảnh hưởng của việc thực hiện tới chất lượng
sản phẩm và năng suất, những yêu cầu về duy tu và sử dụng, các kỹ năng cần thiết
cho việc vận hành và giám
sát.
Thứ hai là cần phải đưa
những thay đổi về về đặc tính kỹ thuật vào bảng cân đối nguyên vật liệu đã được
dự kiến trước, thể hiện những thay đổi này dưới dạng các dòng đầu vào/đầu ra và
các nhu cầu về năng lượng sau khi thực hiện phương án SXSH
này.
Đánh giá kỹ thuật đòi hỏi
phải có những sự nghiên cứu kỹ càng, đặc biệt liên quan tới nguồn
vốn.
b. Đánh giá Kinh tế.
Đánh giá Kinh tế tối thiểu
nhất cũng bao gồm việc thu thập thông tin (về các khoản đầu tư và các chi phí
lợi ích tác nghiệp), lựa chọn các tiêu chí đánh giá (thời hạn hoàn vốn, giá trị
hiện tại ròng (NPV), hoặc tỷ lệ hoàn vốn nội tại (IRR), và các tính toán, về
tính khả thi. Những số liệu kinh tế có được sẽ được bổ sung vào các kết quả đánh
gía kỹ thuật. Để có thể có được các lợi thế kinh tế dài hạn khi thực hiện SXSH,
cần phải áp dụng các nguyên tắc đánh giá tổng chi phí trong khi thực hiện đánh
giá kinh tế, điều này đặc biệt quan trọng đối với các phương án SXSH có chi phí
cao.
Nếu phương án không đòi hỏi
những chi phí đầu tư cao, việc đánh giá kinh tế tương đối đơn giản. Các lợi ích
kinh tế có thể được tính toán để làm rõ mức độ giảm bớt các chi phí vận hành,
hoặc tăng lợi ích môi trường (phòng ngừa và giảm bớt chất
thải).
Thời hỳ hoàn vốn là một
trong những phương pháp đánh giá kinh tế phổ biến nhất. Thời kỳ hoàn vốn được
xác định bằng đơn vị thời gian (ví dụ: Năm) cần thiết để có thể sản sinh ra được
số tiền đủ cho hoàn trả vốn đầu tư ban đầu. Thời kỳ hoàn vốn càng ngắn có nghĩa
là đầu tư cho SXSH càng có hiệu
quả.
Đầu tư tư
bản
Thời kỳ hoàn vốn =
--------------------------------------------------
Tiết kiệm chi phí hoạt động
hàng
năm
Thời kỳ hoàn vốn thường được
tính theo đơn vị năm. Tuy nhiên, có những dự án đầu tư đặc biệt có hiệu quả, có
thể hoàn vốn trong vòng một số tháng. Thời kỳ hoàn vốn trong khoảng từ 3 đến 4
năm thường được coi là có thể chấp nhận được đối với các dự án đầu tư ít rủi ro.
Phương pháp này thường sử dụng cho đánh giá nhanh nhằm xac định suất lợi nhuận.
Nếu dự án có chi phí tư bản lớn, cần phải có những phân tích kỹ càng, tỷ mỷ
hơn.
Tỷ suất hoàn vốn nội tại
(IRR) và giá trị hiện tại ròng (NPV) là hai phương pháp tính dòng tiền có chiết
khấu, nhằm xác định suất lợi nhuận. Nhiều công ty sử dụng phương pháp này để xếp
hạng các dự án đầu tư cơ bản, cần có sự sắp đặt ưu tiên khi tiến hành cấp vốn.
Việc cấp vốn cơ bản cho một dự án có thể phụ thuộc lớn vào khả năng của dự án
trong việc tạo ra các dòng tiền ngoài phạm vi thời kỳ hoàn vốn, để có thể hiện
thực hoá khả năng thu hồi vốn đầu tư ở mức độ có thể chấp nhận được. Cả NPV và
IRR phải tính tới giá trị thời gian thông qua việc thực hiện chiết khấu đồng
tiền được sử dụng trong tương lai và chuyển chúng về hiện tại. Đối với các dự án
đầu tư có mức độ rủi ro thấp, tỷ lệ hoàn vốn nội tại (IRR) sau thuế vào khoảng
12-15% là có thể chấp nhận
được.
Tỷ suất lợi ích/ chi phí
(BCR) là tỷ suất so sánh giữa tổng giá trị hiện tại của tất cả các dòng tiền vào
với tổng giá trị hiện tại của tất cả các dòng tiền ra của một dự án. BCR cho
biết tổng giá trị hiện tại của các lợi ích lớn gấp bao nhiêu lần tổng giá trị
hiện tại của các chi phí, chính vì vậy BCR là chỉ tiêu quan trọng để quyết định
xem có nên thực hiện một dự án SXSH này hay dự án khác hay không. Tuy nhiên khi
thực hiện chỉ tiêu này các doanh nghiệp cũng phải lưu tâm tới một vấn đề hết sức
quan trọng đó là các quy chế về môi trường do luật pháp quy định. Một doanh
nghiệp vi phạm các quy định pháp lý về môi trường sẽ phải đối mặt với các khoản
phạt hành chính, kiện cáo, hoặc thậm chí cả phạt hình sự nữa (đối với các cán bộ
quản lý doanh nghiệp). Kết quả nhà máy có thể bị đóng cửa. Trong trường hợp này,
sự tồn tại của nhà máy/doanh nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào việc dự án cải thiện
môi trường ở đó được thực hiện tốt hay
không.
b. Đánh giá môi trường.
Mục tiêu của đánh giá môi
trường là xác định các tác động tích cực và tiêu cực của phương án SXSH đối với
môi trường. Bởi lẽ một trong những mục đích quan trọng của SXSH là cải thiên
chất lượng môi trường tại doanh nghiệp, chính vì vậy cần phải có đánh giá môi
trường.
Đánh giá môi trường phải
tính đến tất cả các yếu tố liên quan đến vòng đời sản phẩm hoặc dịch vụ. Có hai
cách phân tích vòng đời sản phẩm hiện đang phổ biến là phân tích định tính và
phân tích định
lượng.
Thứ nhất phân tích định
lượng bao gồm việc xây dựng một bộ tiêu thức cho việc đánh giá tác động môi
trường của sản phẩm và thực hiện việc đánh giá đó. Các tiêu thức có thể được xây
dựng bằng cách sử dụng các thông số như: Chi phí đổ bỏ hoặc làm sạch các chất
thải phát sinh ở tất cả các công đoạn trong vòng đời sản phẩm, tổng lượng chi
phí năng lượng để sử dụng tại tất cả các công đoạn của vòng đời sản phẩm, chi
phí gây ra do ảnh hưởng của sản phẩm đó
v.v….
Thứ hai là phân tích định
tính là loại phân tích hữu dụng hơn trong việc đánh giá vòng đời sản phẩm. Phân
tích này bao gồm việc xây dựng một ma trận các vấn đề môi trường có đối chiếu
với từng giai đoạn trong vòng đời sản phẩm. Phương pháp này thường được sử dụng
như một công cụ giúp cho việc xác định các ưu tiên trong khi tái thiết kế các
mẫu sản
phẩm.
Các bước thực hiện khi đánh
giá môi
trường.
- Thứ nhất: Đó là việc đánh
giá những thay đổi về số lượng; độ độc hại của chất thải/chất ô nhiễm tại tất cả
các giai đoạn của vòng đời sản phẩm (ít nhất là đối với nguyên vật liệu, sản
xuất, sử dụng và đổ
bỏ).
- Thứ hai: Đánh giá những
thay đổi về tiêu thụ năng lượng trong suốt vòng đời sản
phẩm.
- Thứ ba: xem xét khả năng
di chuyển ảnh hưởng môi trường sang các môi trường trung gian
khác.
- Thứ tư: xác định khả năng
tái sử dụng của các loại chất
thải.
- Thứ năm: xác định khả năng
thay đổi trong mức độ làm tổn hại môi trường của chất thải/chất gây ô
nhiễm.
- Thứ sáu: xác định mức độ
sử dụng các nguyên liệu có thể tái
tạo.
- Thứ bảy: xác định mức độ
giảm bớt trong tiêu thụ năng
lượng.
- Thứ tám: xác định mức độ
sử dụng các nguồn năng lượng có thể tái tạo
được.
Trên cơ sở đánh giá về kỹ
thuật, kinh tế và môi trường để chúng ta loại bỏ tất cả các phương án không khả
thi về mặt kỹ thuật hoặc những phương án không mang lại lợi ích đáng kể về mặt
môi trường. Tất cả những phương án còn lại về mặt nguyên tắc đều có thể áp dụng
được. Những phương án được ưu tiên nhất đó là những phương án có giá trị hiện
tại ròng cao nhất, tuy nhiên trong trường hợp nguồn vốn đầu tư có hạn sự ưu tiên
lại phải xem xét tới tỷ suất giá trị hiện tại
ròng.
Kinh nghiệm cho thấy việc
tiến hành nghiên cứu và đánh giá về kỹ thuật, Kinh tế và môi trường đòi hỏi chi
phí cao, chính vì vậy việc lựa chọn cầu phải được tiến hành hết sức thận trọng
để có thể tìm ra các phương án có khả năng được thực hiện cao nhất trong những
khoảng thời đã được xác
định.
b. Lợi ích Kinh tế của việc đầu tư cho sản
xuất sạch hơn.
Đầu tư cho sản xuất sạch hơn
là một cách tiếp cận khác hẳn với cách tiếp cận "cuối đường ống", đòi hỏi một
qúa trình cải tiến liên tục nhằm tiết kiệm nguyên liệu, nhiên liệu, năng lượng,
lao động, quản lý và đương nhiên sẽ hạn chế chất thải ra môi trường. cách tiếp
cận này có tính chất phòng ngừa là chính nhằm mục tiêu tăng hiệu quả tổng
thể.
Kết quả phân tích lý luận
cũng như vận dụng trong thực tiễn cho các doanh nghiệp đã thực hiện dự án sản
xuất sạch hơn đã chứng minh lợi ích kinh tế của loại dự án này, có thể tóm lược
những lợi ích cơ bản như
sau:
- Sản suất sạch hơn sẽ làm
tăng hiệu quả của việc sử dụng nguyên liệu đầu vào, nguồn nước, nguồn nhiên liệu
và năng lượng, cải thiện điều kiện làm việc và do đó sẽ tăng hiệu quả kinh tế so
với khi chưa tiến hành dự án sản xuất sạch hơn thông qua tiết kiệm chi
phí.
- Dự án sản xuất sạch hơn sẽ
làm giảm mức phát sinh chất thải, tiêu thụ nguyên vật liệu, năng lượng và nước
do vậy sẽ giảm chi phí xử lý chất thải, tiết kiệm chi phí cho doanh
nghiệp.
- Đối với các dự án sản xuất
sạch hơn sẽ làm tăng hiệu quả và năng suất hoạt động của các doanh nghiệp như kế
hoạch thời gian, kế hoạch ngân sách, sử dụng hiệu quả nhân tài vật lực, cải
thiện điều kiện làm việc, giảm bớt được các nghĩa vụ pháp
lý.
- áp dụng dự án sản xuất
sạch hơn sẽ làm tăng lợi thế so sánh của các doanh nghiệp và công ty trên thị
trường vì sản phẩm của họ đáp ứng tiêu chuẩn môi trường, người tiêu dùng ưa
thích hơn và do vậy sản phẩm sẽ tiêu thụ được nhiều hơn, lợi nhuận tăng. Hình
ảnh công ty sẽ ngày càng chiếm lĩnh trên thị
trường.
- áp dụng sản xuất sạch hơn
là lý do làm cho môi trường liên tục được cải thiện, các công ty sẽ hướng phát
triển của mình vào mục tiêu phát triển bền vững, do vậy hoạt động của công ty sẽ
tồn tại lâu dài, sản xuất kinh doanh ổn
định.
Xét trên tổng thể về kinh
tế, áp dụng sản xuất sạch hơn không chỉ nhìn thấy những lợi ích kinh tế như đã
phân tích ở trên mà còn chứa đựng nhiều lợi ích tiềm tàng khác mà bản thân người
thực hiện nhiều khi cũng khó nhìn thấy và lượng hóa trước
được.
Minh hoạ 5.1: SXSH – trường hợp công ty thực phẩm thiên
hương
“ Chúng tôi đã bắt đầu lọc sạch dầu chiên để
giảm lượng dầu tiêu thụ do dầu bị giữ trong mì và trong cặn dầu. Điều ngạc nhiên
là việc làm này không những tiết kiệm được dầu chiên mà còn cải thiện đáng kể
chất lượng sản phẩm của chúng tôi. Khách hàng của chúng tôi bây giờ không còn lo
ngại về ngày sản xuất/đóng gói”.
Phát biểu của Phó Giám đốc
công ty thực phẩm Thiên
Hương.
Công ty thực phẩm Thiên
Hương là một trong những công ty chế biến thực phẩm lớn nhất ở TP. Hồ Chí Minh.
Thời điểm năm 1999 Công ty có lực lượng công nhân, viên chức là 1 200 người. Sản
phẩm chính là mỳ ăn liền nhưng công ty còn sản xuất cháo ăn liền, bột canh, đậu
phộng chiên và tương ớt. Công ty thực phẩm Thiên Hương là công ty Quốc doanh và
có một đội ngũ quản lý lành nghề. Vào thời gian nói trên, công ty đứng trước hai
thách thức quan trọng. Thứ nhất là thực hiện chủ trương của Nhà nước, công ty
đang trong quá trình chuẩn bị cổ phần hoá sớm, do vậy có một áp lực lên ban quản
lý nhằm cải thiện tình hình Kinh tế của công ty; Thứ hai là công ty đã bị cơ
quan quản lý môi trường thành phố đưa vào “Sách đen” do có những tác động xấu
lên môi trường, mặt khác do lịch sử để lại các nhà máy của công ty phân bố trong
khu dân cư, phát thải của Nhà máy đã tác động xấu tới môi trường xung quanh
.
Để cải thiện chất lượng môi
trường, công ty thực phẩm Thiên Hương đã quyết định tham gia vào dự án SXSH.
Nhóm SXSH của nhà máy đã được thành lập với 6 thành viên do một phó giám đốc phụ
trách sản xuất đứng đầu. Nhà máy có nhiều quy trình sản xuất các loại sản phẩm
khác nhau, ở đây chỉ tập trung đánh giá SXSH cho dây chuyền sản xuất mỳ ăn liền.
Với sự trợ giúp của các chuyên gia trong nước và quốc tế, nhóm SXSH đã phân tích
toàn diện các dòng chất thải để làm cơ sở cho việc xác định các giải pháp nhằm
tối thiểu hoá chất thải bằng cách tối ưu hoá quy trình sản xuất. Từ đó đã lựa
chọn ra được một số lớn các giải pháp SXSH để thực hiện, có 24 giải pháp, chủ
yếu là các giải pháp ít tốn kém hoặc không tốn chi phí đã được thực hiện với
tổng chi phí đầu tư khoảng 868 triệu đồng (62.000 USD). Những giải pháp này đã
tiết kiệm trực tiếp được hàng năm 9,3 tỷ đồng (633.700USD). Những cải thiện môi
trường chính là giảm được 66% lượng nước thải, giảm được 30-35% tải lượng chất
thải hữu cơ và giảm đáng kể khí
thải.
Những kết quả đạt được bước
đầu của công ty chưa phải là kết quả cuối cùng của dự án SXSH. Điều đáng quan
tâm là sau những kết quả đó công ty đã có một đội ngũ cán bộ lành nghề được huấn
luyện nên có thể xác định và thực hiện được các giải pháp SXSH tiếp theo. Các
giải pháp này sẽ tạo thêm các hiệu quả kinh tế lớn hơn và cải thiện môi trường
tốt hơn nữa. Về quản lý, công ty đã thay đổi phương thức quản lý nhằm đảm bảo có
sự kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng nguyên nhiên vật liệu. Sau mỗi tháng sản xuất
công ty đã có những báo cáo về số liệu tiêu thụ của tất cả các loại nguyên nhiên
vật liệu chính và có những hình thức thưởng phạt cho những công nhân có sáng
kiến trong việc tiết kiệm sử dụng nguyên nhiên vật
liệu.
Những thành quả đạt được của
công ty thực phẩm Thiên Hương đã phải trải qua nhiều cản trở, đặc biệt là khi
bắt đầu thực hiện dự án SXSH. Trở ngại chính là thái độ và sự hiểu biết về khái
niệm SXSH trong đó hàm ý là không muốn có sự thay đổi. Không có một cán bộ nào
của công ty đã từng tìm hiểu về SXSH và không có phương pháp giải quyết vấn đề
một cách hệ thống. Hơn nữa với tư cách là một công ty thực phẩm lớn và được quản
lý tốt, người ta thường cho rằng quy trình sản xuất của nhà máy không thể được
cải thiện tốt hơn nữa. Sự phối hợp làm việc của các chuyên gia ngoài nhà máy và
các cán bộ trong nhà máy, thêm vào đó là áp lực ngày càng tăng phải giảm thiểu
các tác động xấu lên môi trường đã làm thay đổi cơ bản thái độ của cản bộ quản
lý cũng như công nhân trong nhà máy. Minh chứng cho sự nhận thức này là ban giám
đốc công ty đã dành ra một khoản ngân sách hàng tháng khoảng 120 triệu
đồng(8500USD) để thực hiện chương trình SXSH, điều đó đã giúp cải thiện một cách
liên tục không chỉ môi trường khu vực hoạt động sản xuất của nhà máy và lân cận
mà còn lợi ích kinh tế của nhà
máy.
Tóm tắt kết quả chính của dự
án trình diễn SXSH tại công ty thực phẩm Thiên Hương tính đến ngày
20/07/1999.
Kinh phí đầu
tư
|
868 triệu đồng (62
000USD)
|
Tiết kiệm hàng
năm
|
9,3 tỷ đồng (663
000USD)
|
Thới gian hoàn
vốn
| |
Những lợi ích về môi
trường
|
_ Giảm 68% lượng nước
thải
_ Giảm 30-35% tải lượng chất
thải hữu
cơ
_ Giảm đáng kể khí
thải
|
Những thay đổi trong quản
lý
|
*Thiết lập hệ thống giám sát
kiểm tra việc tiêu thụ nguyên nhiên vật liệu theo 27 chỉ
tiêu
* Thiết lập hệ thống khen
thưởng cho việc tiết kiệm tiêu thụ nguyên nhiên vật
liệu
|
Cải thiện chất lượng sản
phẩm
|
_ Cải thiện chất lượng thành
phẩm.
_ Giảm tỷ lệ mỳ vụn từ 9%
còn
3%
_ Tăng 25% năng
suất.
|
0 nhận xét:
Đăng nhận xét